“Không thể bằng lòng khi không có vũ khí hạt nhân”
Dù  là người đi sau, nhưng với phương châm bằng mọi cách, dốc toàn bộ trí  và lực để đạt được mục đích của mình, vậy chúng ta biết gì về “hành  trình” đến với vũ khí nguyên tử của Trung Quốc?
Ngay từ những  năm đầu thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, các nhà  lãnh đạo quân sự và chính trị nước này đã ý thức rằng, Trung  Quốc cần phải có một lực lượng vũ trang mạnh với vũ khí hiện  đại, bao gồm vũ khí hạt nhân.
Mao Trạch Đông từng tuyên  bố: “Trong thế giới ngày nay chúng tôi không thể bằng lòng khi không  có nó (vũ khí hạt nhân)…, thế giới phương Tây tỏ thái độ coi  thường Trung Quốc bởi vì chúng tôi không có bom nguyên tử, chỉ  có lựu đạn”.
Để thực hiện tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân,  đầu năm 1950, Trung Quốc thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Tiền  Tam Cường trở thành Phó Giám đốc đầu tiên của Viện này. Ông này  được coi là cha đẻ của bom nguyên tử Trung Quốc.
Vậy, Tiền Tam  Cường là ai? mùa hè năm 1937, Tiền Tam Cường được Bắc Kinh đưa đi nghiên  cứu sinh ở Viện radium, ĐH Paris. Sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông  được nhà khoa học Frederic Joliot-Curie dẫn dắt.
Năm  1940, Tiền Tam Cường đã bảo vệ thành công luận án của mình và  tiếp tục làm việc ở Pháp. Từ những thành tích xuất sắc của  mình, năm 1947, nhà khoa học này đã được trao giải thưởng của  Viện Hàn Lâm Khoa học Pháp. Năm sau ông trở về Trung Quốc.
 
|  | 
| Cha đẻ bom nguyên tử Trung Quốc Tiền Tam Cường. | 
Ngoài  Tiền Tam Cường, dự án phát triển hạt nhân của Trung Quốc cũng  có sự tham gia của hàng trăm nhân tài hoa kiều. Trong số họ phải  kể đến hai nhà vật lý Ganpan Wang và Zhao Zhongyang từ ĐH Illionois,  sau nhiều năm sinh sống ở nước ngoài đã có mặt tại Trung Quốc  trong thời kỳ đầu của dự án phát triển hạt nhân. Chính họ đã  mang rất nhiều bí mật hạt nhân và những kinh nghiệm đúc rút từ  thực tế ở nước ngoài về cho quê hương.
Mùa xuân năm 1953,  đoàn đại biểu của Viện hàn lâm Khoa học Trung Quốc có chuyến  “công du” đến Liên Xô để mở rộng kiến thức về công nghệ hạt  nhân.
Chuẩn bị đón đoàn khách Trung Quốc, Chủ tịch Viện  hàn lâm Khoa học Liên Xô, Viện sĩ Alexamder Nesmeyanov đã khuyên  các cơ quan có thẩm quyền phải cận trọng khi làm việc với phái  đoàn Trung Quốc và Tiền Tam Cường, chỉ giới thiệu một số công  trình khoa học có tính chất chung chung mà không giới thiệu vấn đề định  hướng.
Tháng 10/1954, lần đầu tiên Mao Trạch Đông đề nghị  Moscow giúp Bắc Kinh chế tạo vũ khí hạt nhân nhân dịp Nikita  Khushchev viếng thăm Bắc Kinh. Khi đó, Khushchev đã không đưa ra  bất kỳ lời hứa đảm bảo nào, hơn nữa Nikita Khushchev còn khuyên  Mao Trạch Đông nên từ bỏ dự án hạt nhân vì Trung Quốc chưa có  nền tảng khoa học kỹ thuật, công nghiệp và tiềm lực kinh tế  cần thiết.
Cũng trong thời gian ấy, niềm tin của các nhà  lãnh đạo quân sự và chính trị Trung Quốc về sự cần thiết sở  hữu vũ khí hạt nhân ngày càng lên cao, nhất là trong bối cảnh nước  này tham gia cuộc chiến ở Triều Tiên (1950-1953) và xung đột Trung -  Mỹ leo thang ở eo biển Đài Loan (năm 1958).
Các nhà lãnh  đạo Trung Quốc đã nhận thức mối đe dọa từ phía Mỹ khi họ có thể  sử dụng bom nguyên tử, chính vì thế, tại cuộc họp mở rộng của ban Bí  thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 15/1/1955, Mao Trạch Đông  đã đưa ra chỉ thị: Trung Quốc phải phát triển bom nguyên tử với sự giúp  đỡ của Liên Xô hoặc là không có sự tham gia của Liên Xô.
Khrushchev nhượng bộ
Nhằm  tăng cường nguồn tài nguyên uranium thô (sẽ nhận được theo cam kết từ  phía Trung Quốc trong trao đổi để giúp đỡ về việc thăm dò uranium) ngày  20/1/1955, Liên Xô nhất trí ký thỏa thuận với Trung Quốc về kế hoạch  cùng nhau nghiên cứu địa chất ở Tân Cương và phát triển mỏ uranium.
Việc  tìm kiếm mỏ uranium, ngoài sự tham gia của các chuyên gia Liên Xô và  Trung Quốc còn có một số nhà khoa học đến từ Đông Âu. Địa điểm đầu tiên  tìm thấy nguồn trữ lượng uranium là ở khu vực Tây - Bắc Trung Quốc (Tân  Cương) và nơi đây cũng đã bắt đầu triển khai công tác khai thác mỏ từ  năm 1957.
|  | 
| Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông (trái) và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Khruschev. | 
Tiếp  theo, ngày 7/4/1956, hai bên đã ký một thỏa thuận. Theo đó, Liên Xô sẽ  cung cấp viện trợ để xây dựng các công trình dân sinh và quân sự, gồm  tuyến đường sắt từ Aktoga đến Lanzhuo (Lan Châu) để chuyên chở các trang  thiết bị của Trung tâm thử nghiệm vũ khí nguyên tử đầu tiên ở Lop Nor.
Mùa  đông 1956, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định “phát triển năng lượng  hạt nhân”. Trong dự án này có hai lĩnh vực cơ bản, chế tạo tên lửa chiến  lược và vũ khí nguyên tử. Từ năm 1956-1967, tất cả các tinh hoa của nền  khoa họcTrung Quốc và hơn 600 nhà khoa học Liên Xô đã làm việc theo kế  hoạch phát triển khoa học đầy tham vọng này.
Kế hoạch này gồm  phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, nghiên  cứu công nghệ phản lực, chế tạo công nghệ bán dẫn và phát triển máy tính  …Để thực hiện những kế hoạch này, Bắc Kinh yêu cầu Liên Xô và các nước  “hỗ trợ một cách toàn diện và nhanh chóng”.
Ngoài ra, thời gian  đó, Liên Xô đã cam kết xây dựng hàng trăm nhà máy công nghiệp Quốc phòng  ở Trung Quốc. Tuy nhiên, điều mà Bắc Kinh muốn Liên Xô giúp đỡ đầu tiên  đó là việc phát triển trong lĩnh vực hạt nhân và quốc phòng. Tình hình  bất ổn ở Ba Lan và Hungary xảy ra năm 1956 cũng khiến cho Khrushchev rất  cần sự hỗ trợ từ phía Trung Quốc về mặt chính trị, do đó đã quyết định  mở rộng hợp tác với Trung Quốc. Trước đó Khrushchev vừa trải qua cuộc  “sàng lọc” nội bộ với Molotov và những người thân cận, chính vì thế  Khrushchev muốn Mao có mặt trong Đại hội Đảng Cộng Sản tại Moscow năm  1957. Khrushchev muốn thành công trong quan hệ với Trung quốc để tăng  cường vị thế của mình ở Liên Xô, và nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rất khôn  khéo sử dụng tình thế này. Mao tuyên bố sẽ đến Liên Xô chỉ sau khi ký  kết thỏa thuận kỹ thuật - quân sự, bao gồm cả việc chuyển giao nguyên  liệu và mô hình để Trung quốc sản xuất vũ khí nguyên tử. Vì thế, ngày  15/10/1957, Trung - Xô đã đặt bút ký thỏa thuận chuyển giao công nghệ  sản xuất vũ khí hạt nhân cho Trung Quốc. Moscow chỉ từ chối chuyển giao  các tài liệu liên quan đến xây dựng tầu ngầm hạt nhân.
Theo  phương tiện truyền thông Trung Quốc, khi đó Liên Xô cũng đã cung cấp hai  mẫu tên lửa tầm ngắn đất đối đất cho phía Trung Quốc. Đây là cách mà  người Trung Quốc đạt được mục đích tiếp cận với công nghệ chế tạo vũ khí  hạt nhân của Liên Xô. Cũng từ đó, bắt đầu từ năm 1958, Trung Quốc sẽ là  nơi đến của các nhà khoa học hạt nhân Liên Xô. Trong giai đoạn  1950-1960, đã có khoảng 10.000 các chuyên gia ngành công nghiệp hạt nhân  Liên Xô đến làm việc tại Trung Quốc, với sự giúp đỡ của các chuyên gia  Liên Xô, đã lựa chọn, xây dựng bãi thử nghiệm hạt nhân Lop Nor.
Vào  tháng 9/1958, các nhà khoa học Liên Xô đã giúp đỡ để khởi động lò phản  ứng thí nghiệm hạt nhân nước nặng đầu tiên của Trung Quốc và xây dựng  máy gia tốc thực nghiệm. Đồng thời Liên Xô đã tiếp nhận và đào tạo  11.000 chuyên gia và 1.000 nhà bác học cho Trung Quốc.
