Nhân  quyền, tự do, dân chủ, bình đẳng... những giá trị phổ quát này của loài  người vốn không có nguồn gốc tại phương Đông và du nhập Trung Quốc khá  muộn, hơn nữa lại đến từ phương Tây, tức là từ kẻ xâm lược bị người  Trung Quốc căm ghét. Bản thân những từ thể hiện các giá trị ấy cũng  không có trong kho từ vựng Hán ngữ mà do các nhà khai sáng Nhật sáng tạo  vào cuối thế kỷ XIX khi họ dịch tác phẩm của những nhà khai sáng phương  Tây viết bằng tiếng Hà Lan, Anh, Pháp, Đức ra ngôn ngữ Hán-Nhật. 
Bởi  vậy các giá trị tiên tiến ấy không dễ được đông đảo người Trung Quốc  tiếp nhận; việc thực hiện lại càng khó. Cho tới nay mặc dù nước này đã  trải qua những biến đổi long trời lở đất nhưng khái niệm nhân quyền vẫn  còn bị phổ biến coi là “nhạy cảm”, chưa phải là “quyền sinh ra đã có”  của tất cả mọi người; nhà nước cho phép hưởng đến đâu thì được đến đó,  ai yêu cầu cao hơn sẽ bị coi là đối lập với chính phủ. Phương Tây và các  nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc vẫn cho rằng nước này có tình trạng  thiếu nhân quyền. Phương Tây luôn giương lá cờ nhân quyền cao hơn chủ  quyền để phê phán chế độ chính trị của Trung Quốc. Nhưng đây cũng là một  ngoại lực làm cho nhận thức về nhân quyền của Trung Quốc thay đổi rất  nhiều. 
Lịch sử nhận thức nhân quyền ở Trung Quốc có thể chia làm hai giai đoạn lớn.
I. Giai đoạn trước ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Khái niệm nhân quyền lần đầu tiên được giới thiệu vào Trung Quốc qua tác phẩm Đại Đồng Thư  của Khang Hữu Vi xuất bản năm 1902. Nói chung các nhà trí thức Trung  Quốc đều nhiệt liệt tán thành tư tưởng nhân quyền của phương Tây, kể cả  Lý Đại Chiêu, Trần Độc Tú (sau này năm 1921 sáng lập Đảng Cộng sản Trung  Quốc và là Tổng Bí thư). Họ sử dụng nhân quyền như một khẩu hiệu đấu  tranh chống sự thống trị chuyên chế của chính quyền Quốc Dân Đảng Tưởng  Giới Thạch. Để đáp lại đòi hỏi của giới trí thức, năm 1930 chính phủ  Quốc Dân ban hành Lệnh Bảo đảm nhân quyền. Tuy vậy để đối phó  với phong trào đấu tranh đòi dân chủ của nhân dân do Đảng CSTQ lãnh đạo,  chính phủ Tưởng Giới Thạch trên thực tế vẫn tiếp tục sự cai trị độc tài  chuyên chế, hạn chế quyền tự do dân chủ của nhân dân. 
Tư  tưởng nhân quyền cũng không thấy xuất hiện trong các văn kiện của Đảng  CSTQ, tuy rằng Đảng ủng hộ các nhân sĩ dân chủ đấu tranh chống chính phủ  Quốc Dân Đảng vi phạm nhân quyền. Đảng CSTQ không coi việc giành nhân  quyền và dân chủ trừu tượng là mục tiêu cuộc đấu tranh cách mạng của  mình. Các tác phẩm của Mao Trạch Đông không có câu nào viết về nhân  quyền, mà chỉ có những cách đề cập đến khái niệm tương tự nhân quyền.
II. Giai đoạn sau ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 
Trong  thời kỳ Kháng chiến chống Nhật, để giải đáp nỗi nghi ngờ (của giới nhân  sĩ dân chủ trong vùng Quốc Dân Đảng kiểm soát) về việc Đảng CSTQ sẽ học  Liên Xô thực thi chuyên chính vô sản và chế độ một đảng lãnh đạo, trong  tác phẩm Bàn về chính phủ liên hợp, Mao Trạch Đông nói rõ  chuyện đó chỉ xảy ra ở giai đoạn chủ nghĩa xã hội, còn ở giai đoạn Tân  dân chủ thì nhiệm vụ của Đảng CSTQ là để nhân dân “giành được quyền lợi  tự do đầy đủ”. Tuy nhiên khái niệm nhân dân ở đây là gì thì Mao chưa nói  rõ. 
Không lâu trước ngày cách mạng thắng lợi, Mao Trạch Đông viết bài Bàn về chuyên chính dân chủ nhân dân,  giải thích chuyên chính dân chủ nhân dân là sự kết hợp “mặt dân chủ đối  với nội bộ nhân dân và mặt chuyên chính đối với bọn phản động”. Như vậy  khái niệm nhân dân đã được nói rõ là đại bộ phận công dân đối  lập với một thiểu số “bọn phản động”; quyền lợi và địa vị của hai bộ  phận này quyết định bởi địa vị giai cấp của họ.  
Tuy  vậy trong thời gian từ năm 1949 tới nay, quan điểm nhân quyền của Đảng  và Chính phủ Trung Quốc đã có sự thay đổi rõ rệt, chia ra làm 5 thời kỳ.
1. Thời kỳ 1949-1978
 Đây là thời kỳ nhà nước và giới lý luận Trung Quốc hoàn toàn phủ định  nhân quyền. Hệ tư tưởng Trung Quốc thời ấy cho rằng: - Trên thế giới  không tồn tại bất cứ khái niệm nhân quyền siêu giai cấp nào, bởi lẽ mọi  lợi ích hiện thực đều có tính giai cấp, cho nên bất cứ quyền lợi nào  phản ánh lợi ích ấy đều có tính giai cấp. - Nhân quyền là thứ giai cấp  tư sản dùng làm công cụ lừa bịp nhân dân, tô son trát phấn cho bộ máy  cai trị của họ.Đầu  thế  kỷ XXI, khái niệm nhân quyền bắt đầu đi vào hệ thống từ ngữ của Đảng   và Nhà nước Trung Quốc mà không bị tránh né như trước. Năm 2004, lần đầu  tiên trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề bảo đảm nhân quyền được đưa vào  Hiến pháp. 
Không những các  nhà lãnh đạo không bao giờ nói đến vấn đề nhân quyền mà tất cả các văn  bản pháp luật, kể cả Hiến pháp Trung Quốc đều không có bất kỳ thể hiện  nào về nhân quyền. Từ nhân quyền không xuất hiện trong mọi ấn  phẩm, trừ các sách lịch sử. Trên thực tế, các quyền tự do cơ bản của  nhân dân lao động đều ít nhiều bị hạn chế, nhất là tự do ngôn luận, tự  do lập hội, đảng. Những người không thuộc giai cấp công nông càng bị hạn  chế hơn. Người thành phần trí thức cũ, tư sản, người thuộc phái hữu thì  bị tước bỏ mọi quyền tự do, thậm chí bị ngược đãi. Trong Cách mạng Văn  hóa, những người bị chụp mũ “phái phản động” - trong đó có rất nhiều  công dân chân chính, nhà cách mạng - bị Hồng Vệ Binh đánh đập, tra tấn,  xử tù xử tử vô cùng dã man không theo bất cứ luật pháp nào. 
Tuy  vậy trên mặt trận ngoại giao, chính phủ Trung Quốc vẫn tuyên bố ủng hộ  cuộc đấu tranh giành nhân quyền của nhân dân các nước trên thế giới. 
2. Thời kỳ 1978-1985
Bằng việc đề xuất Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý,  Hội nghị lần 3 toàn thể Trung ương Đảng CSTQ khóa XI cuối năm 1978 đánh  dấu Trung Quốc tiến sang thời đại giải phóng tư tưởng. Xã hội được mở  cửa với nước ngoài, với phương Tây, nhờ thế tư tưởng nhân quyền du nhập  phổ biến vào Trung Quốc, tạo ra sức ép dư luận. Từ đó trong xã hội bắt  đầu có người cổ súy tư tưởng nhân quyền, và nhìn chung dân chúng bắt đầu  được biết về quan điểm của phương Tây đối với vấn đề nhân quyền ở Trung  Quốc. Giới trí thức bắt đầu tiến hành nghiên cứu độc lập về vấn đề nhân  quyền, trước hết trong lĩnh vực pháp luật, hiến pháp. 
Việc  nghiên cứu này có đặc điểm là giới thiệu một cách có phê phán quan điểm  nhân quyền và lịch sử phát triển nhân quyền của phương Tây nhưng không  thừa nhận Trung Quốc có vấn đề nhân quyền, không cho rằng Trung Quốc nên  tiếp thu quan điểm nhân quyền của phương Tây, ngược lại còn chứng minh  về lý luận tại sao Trung Quốc cách ly với lý luận nhân quyền. Trên  nguyên tắc, giới học thuật về cơ bản nhất trí với quan điểm của nhà  nước, vẫn cho rằng trong xã hội có giai cấp thì việc bàn vấn đề nhân  quyền là không hiện thực. 
Giới học thuật Trung Quốc thời kỳ này cho rằng: 
 1- Nhân quyền là khẩu hiệu của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh  chống chế độ phong kiến; sau cách mạng tư sản, nhân dân chỉ giành được  “nhân quyền trên giấy”; hơn nữa, sau khi đã củng cố chính quyền của  mình, giai cấp tư sản còn tước đoạt mọi quyền lợi của nhân dân, xâm phạm  nhân quyền cơ bản của họ, bởi vậy nhân quyền không có ý nghĩa gì đối  với nhân dân; Một mặt  nhà nước Trung  Quốc thừa nhận tính quan trọng của nhân quyền cá nhân,  mặt khác cho rằng  việc bảo vệ nhân quyền cá nhân phải tùy theo năng lực  thực tế của nhà  nước, bởi lẽ nếu dốc toàn lực vào việc nâng cao trình  độ bảo vệ nhân  quyền cá nhân cho bằng với tiêu chuẩn của các nước phát  triển thì Trung  Quốc sẽ phải bỏ mất nhiều cơ hội phát triển kinh tế,  xét về lâu dài là  bất lợi cho việc nâng cao trình độ bảo vệ nhân quyền.   
2- Các quy định  bảo vệ quyền tư hữu tài sản trong hiến pháp và pháp luật của nhà nước  tư sản nhằm bảo vệ cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản, tức bảo vệ sự  thống trị của giai cấp tư sản; 
3-  Cho dù nhân quyền ở phương Tây có sự phát triển, tiến bộ nhưng nó chỉ  thực hiện trong phạm vi luật pháp của giai cấp tư sản, cho nên không có  sự thay đổi về bản chất, vẫn là sự phản ánh ý chí của giai cấp thống  trị, là công cụ duy trì và củng cố trật tự xã hội của giai cấp tư sản; 
4- Trong quan hệ quốc tế, phương Tây mượn nhân quyền để can thiệp nội trị ở các nước khác; 
5-  Quy luật lịch sử là chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa xã  hội, vì thế khái niệm nhân quyền của giai cấp tư sản sẽ phải nhường chỗ  cho khái niệm các quyền lợi cơ bản của công dân các nước xã hội chủ nghĩa.
Từ  các luận điểm trên, giới học thuật Trung Quốc rút ra kết luận nhân  quyền của giai cấp tư sản không có gì đáng để hâm mộ và theo đuổi mà  ngược lại cần được vạch trần và phê phán. 
Quan  điểm phủ định nhân quyền nói trên một lần nữa cho thấy công tác nghiên  cứu học thuật ở Trung Quốc trong thời kỳ này vẫn lạc hậu so với nhu cầu  thực tế của xã hội. Tình trạng lý luận tụt sau hiện thực ấy là một bi  kịch, vì nó có nghĩa là xã hội Trung Quốc bị tước mất động lực phát  triển. Dẫu sao việc giới thiệu tư tưởng nhân quyền (mặc dù có kèm phê  phán) một cách rộng rãi vào xã hội Trung Quốc, vẫn là hữu ích; trên thực  tế nó đã chuẩn bị cho bước phát triển trong thời kỳ tiếp theo.
3. Thời kỳ 1985-1991
Trong  giai đoạn này, dưới ảnh hưởng của sự truyền bá mạnh mẽ tư tưởng nhân  quyền và do chịu sức ép của phương Tây yêu cầu Trung Quốc cải thiện nhân  quyền, Đảng và Nhà nước bắt đầu chủ trương nên nghiên cứu vấn đề nhân  quyền. Đặng Tiểu Bình là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên công khai đồng ý  việc đề cập vấn đề này. Ngày 6/6/1985, ông nói với các vị khách Đài Loan  trong đoàn chủ tịch cuộc hội thảo “Đại lục và Đài Loan”: “Thế nào là  nhân quyền? Điều đầu tiên là nhân quyền của bao nhiêu người? Là nhân  quyền của thiểu số hay nhân quyền của đa số? hay nhân quyền của nhân dân  toàn quốc? Về bản chất, cái gọi là ‘nhân quyền’ của phương Tây và nhân  quyền chúng tôi nói là hai chuyện (khác nhau).”
Ở đây ông Đặng phân biệt nhân quyền của phương Tây với nhân quyền của Trung Quốc, chứ không phân biệt nhân quyền của giai cấp tư sản với quyền lợi cơ bản của công dân nước xã hội chủ nghĩa  như cách thể hiện từ ngữ trước kia Trung Quốc hay dùng. Đây là một thay  đổi rất đáng chú ý. Mặt khác ông gián tiếp tỏ ý thừa nhận Trung Quốc có  vấn đề về nhân quyền. Giới học thuật nước này lập tức nhân dịp đó đặt  vấn đề thảo luận tại sao trước đây dùng từ quyền lợi công dân mà không dùng từ nhân quyền.  Tuy họ vẫn cho rằng Trung Quốc có lý do hợp lý để dùng từ như vậy,  nhưng dù sao cuộc thảo luận này đã vượt ra ngoài phạm vi bình luận câu  nói của Đặng, mở đầu cho đợt tranh luận rộng rãi hơn xung quanh vấn đề  tồn tại về nhân quyền ở Trung Quốc. 
Một  số học giả có trách nhiệm đã đứng ra kêu gọi nghiên cứu quan điểm nhân  quyền của Mác và giới thiệu quan điểm nhân quyền của phương Tây, nhưng  ngay lập tức họ bị thế lực lý luận truyền thống kết tội là “phần tử tự  do hóa tư sản”; cố gắng của họ bị ngăn chặn. Thí dụ Báo cáo tại Hội nghị  lần 4 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa VII hồi tháng 4/1991 có viết:  “Mấy năm gần đây, một số cực ít người kiên trì tự do hóa của giai cấp tư  sản ra sức đòi xóa bỏ chế độ Đại hội đại biểu nhân dân (tức quốc hội)  của nước ta, tuyên truyền ‘dân chủ’, ‘tự do’, ‘nhân quyền’ và ‘tam quyền  phân lập’ của giai cấp tư sản, cố súy đi theo con đường nghị viện  phương Tây, nhằm mục đích phủ định dân chủ nhân dân và chế độ hội nghị  đại biểu nhân dân... ngông cuồng đòi thay chế độ XHCN thành chế độ tư  bản.” 
Nhưng chỉ sau đó ít lâu, thái độ đối với nhân quyền của Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã có biến đổi chưa từng thấy.
4. Thời kỳ 1991-1998
Từ nửa cuối năm 1991, Chính phủ Trung Quốc bắt đầu công bố Sách Trắng  về tình hình nhân quyền ở Trung Quốc, mỗi năm một lần, nhằm giới thiệu  lịch sử phát triển nhân quyền, tình hình hiện nay và các biện pháp bảo  vệ nhân quyền ở Trung Quốc. Việc công bố Sách Trắng nhằm đáp trả sự công  kích của phương Tây trên vấn đề nhân quyền của Trung Quốc, vì thế nội  dung chính của Sách là nói về thành tích tiến bộ của Trung Quốc trên vấn  đề nhân quyền. Dù sao việc công bố này đã gián tiếp cho thấy Chính phủ  Trung Quốc thừa nhận nước họ có tồn tại các vấn đề về nhân quyền. Thí dụ  Sách Trắng năm 1991 chia 10 phần, trình bày 10 vấn đề, cuối mỗi phần đều điểm lại những thiếu sót về mặt bảo vệ nhân quyền.
Từ  đó trở đi công tác bảo vệ nhân quyền và nghiên cứu nhân quyền của giới  học thuật đã bắt đầu đi vào quỹ đạo nghiêm chỉnh. Nhiều vùng cấm trong  nghiên cứu được mở ra; xã hội bắt đầu chú trọng đến việc nghiên cứu này.  Trong dịp Tổng thống Clinton thăm Trung Quốc năm 1998, Chủ tịch Giang  Trạch Dân tuyên bố: “Hôm nay, Chính phủ Trung Quốc trang nghiêm cam kết  sẽ xúc tiến và bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản”. Lời hứa nghiêm chỉnh  này đã tổng kết một giai đoạn phát triển nhân quyền ở Trung Quốc, ngầm  tỏ ý sự bất đồng giữa Trung Quốc với Mỹ và phương Tây về vấn đề nhân  quyền sẽ có thể được thu hẹp và có khả năng đi tới nhất trí. Trên thực  tế trong mấy năm tiếp sau, nhận thức của nhà nước (là nhân tố quyết  định), của giới học thuật và của xã hội Trung Quốc đều có tiến bộ về  thực chất, cơ bản tán thành quan điểm “nhân quyền trời cho”. 
5. Thời kỳ sau 1998
Trong  thời kỳ này nhận thức của nhà nước Trung Quốc về nhân quyền nhanh chóng  tiếp cận tiêu chuẩn nhân quyền của thế giới. Năm 1999, Chủ tịch Giang  Trạch Dân nói tại Đại học Cambridge (Anh quốc): ”Đến giữa thế kỷ sau,  hành tinh loài người cư trú này nên tiến một bước thiết thực nhằm thực  hiện hòa bình và phồn vinh mãi mãi; nhân dân các nước đều có thể thoát  ra khỏi nỗi ám ảnh của chiến tranh và nghèo khó, tạo dựng cuộc sống mới  hưởng tự do. Đây là nguyện vọng chung của tất cả các nước chúng ta.” Hơn  nữa, ông còn nói nhân quyền tập thể và nhân quyền cá nhân không mâu  thuẫn với nhau và Trung Quốc sẽ cố gắng xúc tiến việc bảo vệ nhân quyền  cá nhân, nhưng phải dựa trên cơ sở năng lực kinh tế của mình. 
Qua  đây có thể thấy một mặt nhà nước Trung Quốc thừa nhận tính quan trọng  của nhân quyền cá nhân, mặt khác cho rằng việc bảo vệ nhân quyền cá nhân  phải tùy theo năng lực thực tế của nhà nước, bởi lẽ nếu dốc toàn lực  vào việc nâng cao trình độ bảo vệ nhân quyền cá nhân cho bằng với tiêu  chuẩn của các nước phát triển thì Trung Quốc sẽ phải bỏ mất nhiều cơ hội  phát triển kinh tế, xét về lâu dài là bất lợi cho việc nâng cao trình  độ bảo vệ nhân quyền. 
Có thể tóm tắt quan điểm cơ bản về nhân quyền của Trung Quốc thời kỳ này như sau: 
1-  Nhân quyền là quyền lợi loài người phổ biến được hưởng, không quốc gia  nào được coi nhẹ hoặc tước đoạt nhân quyền của nhân dân nước mình; 
2-  Nhân quyền cơ bản quan trọng nhất của người Trung Quốc là quyền sinh  tồn tập hợp và quyền phát triển, đồng thời phải dựa trên cơ sở phát  triển kinh tế để tăng cường bảo vệ quyền lợi của công dân; bảo đảm nhân  quyền trước hết là bảo đảm dân được sống no ấm, tức bảo đảm về kinh tế,  không nhấn mạnh bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Kinh tế Trung Quốc tăng  trưởng nhanh tức là đã bảo đảm nhân quyền, phương Tây không có quyền  nói Trung Quốc thiếu nhân quyền. 
3-  Chính phủ Trung Quốc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền cơ bản của công dân  nước mình, tích cực xúc tiến phát triển bảo vệ nhân quyền; 
4-  Việc xác định và bảo vệ phạm vi nhân quyền cơ bản là công việc nội bộ  của mỗi một quốc gia có chủ quyền, trên nguyên tắc không chịu sự can  thiệp từ bên ngoài; 
5- Chỉ  khi chính phủ một quốc gia nào đó xâm phạm với quy mô lớn nhân quyền của  nhân dân nước mình hoặc nước khác thì cộng đồng quốc tế mới nên đứng  lên ngăn chặn, nhưng nên cố hết sức tránh dùng vũ lực.
Đáng  chú ý là nhân quyền mà Chính phủ Trung Quốc nói tới chủ yếu là nhân  quyền tập thể chứ không phải nhân quyền cá nhân; mặt khác chỉ nói vấn đề  nhân quyền với nước ngoài là chính, còn đối với nhân dân nước mình thì  rất ít đề cập từ nhân quyền. Mãi đến năm 1997, Báo cáo chính trị của Đại  hội Đảng XV mới bắt đầu nói Đảng CSTQ có nhiệm vụ “tôn trọng và bảo đảm  nhân quyền”.
Đầu thế kỷ XXI,  khái niệm nhân quyền bắt đầu đi vào hệ thống từ ngữ của Đảng và Nhà nước  Trung Quốc mà không bị tránh né như trước. Cuối năm 2002, Trung ương  Đảng CSTQ chính thức đề nghị viết điều khoản “Bảo vệ nhân quyền của công  dân” vào Hiến pháp. Trong kỳ họp tháng 2/2003, Quốc hội Trung Quốc nhất  trí với đề nghị này. 
Cuối  cùng, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề bảo đảm nhân quyền  được đưa vào Hiến pháp: Điều 33 Hiến pháp Trung Quốc do kỳ họp lần 2  Quốc hội Trung Quốc khóa X thông qua ngày 14 tháng Ba năm 2004 quy định:  “Người nào có quốc tịch nước CHND Trung Hoa đều là công dân nước CHND  Trung Hoa. Công dân nước CHND Trung Hoa nhất luật bình đẳng trước pháp  luật. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm nhân quyền…” Điều 37 quy định: «...  Bất cứ công dân nào cũng không bị giam giữ khi chưa có phê chuẩn hoặc  quyết định của Viện Kiểm sát Nhân dân hoặc quyết định của Tòa án Nhân  dân và do cơ quan công an thi hành…”. 
Như  vậy Hiến pháp Trung Quốc đã thừa nhận tất cả mọi người có quốc tịch  nước CHND Trung Hoa đều được nhà nước bảo đảm nhân quyền, không phân  biệt thân phận giai cấp và chính kiến của họ. Điều đó cho thấy quan niệm  nhân quyền ở Trung Quốc đã chuyển biến từ lĩnh vực nghiên cứu lý luận  trở thành pháp luật và chính sách bảo vệ nhân quyền, quan niệm này đã  nhất trí với quan niệm của cộng đồng quốc tế. 
Tác giả: Hồ Anh Hải
Nguồn: Tia Sáng
