Lợi dụng các khoảng trống quyền lực nước lớn tại Đông Nam Á/Biển Đông, Trung Quốc từng bước trắng trợn chiếm đoạt biển đảo của các quốc gia khác tại Biển Đông.
Từ sau Hiệp ước 6/6/1884 ký giữa Pháp với triều đình Việt Nam, nước Pháp đại diện quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nỗ lực đầu tiên của Trung Quốc tiến hành năm 1909. Nguyên do là trong Chiến tranh Thanh-Nhật (1894-1895), Nhật Bản đã chiếm Đài Loan cùng Bành Hồ. Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm nhóm đảo Đông Sa (Pratas). Trước sức ép dư luận trong nước, Phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn phái thủy sư đô đốc Lý Chuẩn đem 2 pháo thuyền ra thăm Hoàng Sa chớp nhoáng (24 giờ). Đây là hoạt động có tính thăm dò đầu tiên của một chính quyền địa phương Trung Quốc tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến ngày nay, cứ mỗi lần ở Đông Nam Á/Biển Đông xuất hiện khoảng trống quyền lực nước lớn, Trung Quốc lại tìm cách ra quân lấn chiếm, từng bước tăng cường sự hiện diện của họ tại Biển Đông.
Ngày 26/5/2011, tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Việt Nam
Từ năm 1946, Trung Quốc triển khai năm giai đoạn tranh chiếm Biển Đông:
Giai đoạn 1 (1946-1947), Trung Quốc đặt chân lên Hoàng Sa-Trường Sa:
Tháng 12-1946, Trung Quốc Tưởng Giới Thạch cử tàu ra “giải giáp quân đội Nhật” taị Hoàng Sa và Trường Sa theo sự thỏa thuận của các nước đồng minh chống Nhật.
Khi trở về Quảng Châu, tổng chỉ huy Lâm Tuân cùng một số học giả, nhà địa lý và chuyên gia sử học cùng ngồi lại để phác họa, vẽ ra cái gọi là bản đồ “11 đoạn” rồi giao cho Sở Phương vực thuộc bộ nội chính của chính quyền Trung Hoa dân quốc in ấn vào tháng 10/1947. Năm 1953, Chính phủ CHND Trung Hoa đã phê duyệt cắt bỏ hai đoạn ở vịnh Bắc bộ của Việt Nam để biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn”.
Sau khi CHND Trung Hoa ra đời, đơn vị đồn trú của Trung Quốc Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm, trong khi đó Pháp vẫn duy trì quân đồn trú tại phía tây Hoàng Sa.
Giai đoạn 2 (1951-1974), từng bước đánh chiếm Hoàng Sa:
Tháng 4/1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc bí mật đưa quân ra chiếm đóng nhóm đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý các đảo thuộc nhóm đảo phía tây của Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ ngày 17/1-20/1/1974, diễn ra hải chiến giữa các lực lượng vũ trang của Trung Quốc với lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa. Trung Quốc chiếm nốt các đảo thuộc nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Tàu chiến Mỹ có mặt ngoài khơi nhưng không cứu viện cho hải quân VNCH.
Lúc này, phía Mỹ tuyên bố với phía Trung Quốc “không có ý định can thiệp” vào xung đột Biển Đông, thực chất là làm ngơ cho Trung Quốc hành động, sau khi Mỹ và Trung Quốc ký Thông cáo chung Thượng hải 1972.
Giai đoạn 3 (1975-1995), đánh chiếm một số đảo Trường Sa:
Tại Biển Đông, Trung Quốc theo đuổi sách lược gọi là “chính sách ba bước tiến, hai bước lùi”: Tìm cách lấn chiếm (tiến ba bước); khi dư luận quốc tế bày tỏ lo ngại và lên tiếng phê phán, Bắc Kinh chuyển sang thái độ hòa giải (lùi hai bước). Nhưng xu hướng lâu dài vẫn là lấn tới (lợi một bước). Điều này thể hiện xuyên suốt trong các giai đoạn từ năm 1975.
Từ tháng 1 đến tháng 4/1988, Trung Quốc thực hiện chiến dịch đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam kiểm soát, chiếm đóng đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Su Bi.
Lúc này, phía chính quyền Gorbachev (Liên Xô) đã thực hiện hòa hoãn và thỏa hiệp với Đặng Tiểu Bình Trung Quốc trên một loạt vấn đề đối ngoại. Liên Xô chủ trương rút khỏi Cam Ranh.
Xung đột Trung Quốc - Philippines liên quan đến dải đá ngầm Vành Khăn (Mischief Reef) bắt đầu từ tháng 2/1995 khi Philippines phát hiện Trung Quốc đang cho xây dựng một hệ thống trú phòng trên một hệ thống cột trụ vững chắc, xác lập sự hiện diện thực tế của họ trên hòn đảo này. Xung đột này đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và việc Trung Quốc mở rộng sự có mặt tại quần đảo Trường Sa.
Giai đoạn 4 (1996-2009), ngoại giao “câu giờ” và“Lục hoãn hải khẩu”:
Việc Trung Quốc chiếm dải đá ngầm Vành Khăn dấy lên mối quan ngại sâu sắc tại các nước Đông Nam Á, thúc đẩy ASEAN đoàn kết đấu tranh ngoại giao về vấn đề Biển Đông. Các nỗ lực ngoại giao đã dẫn đến việc ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc, ngày 4/11/2002, tại Phnom Penh.
Trên biển, Trung Quốc củng cố chỗ đứng ở Biển Đông và thực hiện ngoại giao “câu giờ” với những cuộc tranh chấp cường độ thấp. Với Việt Nam, Trung Quốc thực hiện chủ trương “Lục hoãn hải khẩu” (trên đất liền hòa dịu, ngoài biển tranh chấp).
Giai đoạn 5 (2009-2012), tranh chấp toàn diện cường độ cao:
Từ mùa Thu 2008, Mỹ rơi vào “hủng hoảng kép”, bị suy yếu về kinh tế và đối ngoại (sa lầy trong hai cuộc chiến tranh).
Tàu ngầm Trung Quốc trong một cuộc diễn tập
Tháng 3/2009, 5 tàu thuyền Trung Quốc bao vây cản trở hoạt động của tàu nghiên cứu hải dương Impeccable của hải quân Mỹ đang thu thập thông tin tình báo đáy biển ngoài khơi đảo Hải Nam. Tháng 3/2010, phía Trung Quốc nói với Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg rằng lợi ích của họ ở Biển Đông là một trong những “lợi ích cốt lõi”. Tại Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Trung-Mỹ lần thứ hai, tháng 5/2010 tại Bắc Kinh, ông Đới Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ phụ trách đối ngoại, đã nêu với phía Mỹ Biển Đông thuộc “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc.
Bắc Kinh đưa bản đồ đường 9 đoạn hình lưỡi bò vào văn kiện gửi Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa mở rộng, ngày 7/5/2009, chính thức hóa tấm bản đồ “đường đứt đoạn” hình chữ U.
Ngày 26/5/2011, 3 tàu Hải giám của Trung Quốc thực hiện một vụ gây hấn trắng trợn khi cắt đứt cáp thu địa chấn của tàu Binh Minh 02 đang hoạt động cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên), nằm trong vùng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Từ ngày 8/4 đến 18/6/2012, diễn ra cuộc đối đầu tại vùng bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham giữa Trung Quốc với Philippines.
Ngày 21/6/2012, Trung Quốc thành lập “thành phố Tam Sa” (thuộc Hoàng Sa - Việt Nam) và Khu cảnh bị, nhằm thiết lập cứ điểm tại Biển Đông để kiểm soát Biển Đông. Việc thành lập “thành phố Tam Sa” và Khu cảnh bị Tam Sa là bước phát triển mới của chiến lược bá quyền Biển Đông của Trung Quốc.
Tam Sa mở đầu giai đoạn mới Trung Quốc tranh đoạt Biển Đông, tích cực tranh chấp, tích cực khai thác, tạo ra những xung đột lợi ích ngày càng gay gắt với các nước lớn liên quan./.
-----------------
TS Nguyễn Ngọc Trường
Theo Tổ Quốc