Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử (tính đến thời điểm lúc bấy giờ), trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước ...
Chiến tranh Krym (tiếng Anh Crimean War) bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia chống lại Đế quốc Nga. Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga.
Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử (tính đến thời điểm lúc bấy giờ), trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước và đã thay đổi được hình thức của các cuộc chiến tranh sau đó.
Bối cảnh diễn ra cuộc chiến tranh: Tranh chấp vùng Đất Thánh
Sau các cuộc Cách mạng 1848 tại các nước Châu Âu, hoàng đế Nga âm mưu đeo đuổi một chính sách mạnh bạo hơn tại vùng Balkan. Nước Nga hy vọng trục lợi trên sự suy yếu của Đế quốc Ottoman, một cường quốc đã bị hoàng đế Nikolai I của Nga mệnh danh là "thực thể ốm yếu ở châu Âu", nhưng bị Anh và Pháp phản đối quyết liệt.
Năm 1854, quân Nga vượt sông Danube tràn vào xâm chiếm lãnh thổ của Đế quốc Ottoman. Ngay lập tức Anh và Pháp đã tuyên chiến với Nga và gửi quân tới để bảo vệ Thổ.
Tuy Anh và Pháp tuyên chiến với Nga vào ngày 28 tháng 3 năm 1854, nhưng xích mích giữa hai phe xảy ra từ cuộc đảo chính năm 1851 tại Pháp. Hoàng đế nước Pháp là Napoléon III lên ngôi và yêu cầu Đế quốc Ottoman phải công nhận Pháp có chủ quyền đối với vùng đất thánh (xứ Do Thái hay Israel ngày nay).
Hoàng đế Pháp Napoléon III |
Phía Nga cũng buộc Ottoman phải khước từ điều kiện của Pháp, đồng thời công nhận Nga là thế lực bảo vệ Công giáo tại Ottoman. Trước tình hình đó Napoléon III lập tức đưa chiến hạm Charlemagne vào biển Ban Tích, coi thường hiệp ước hàng hải khu vực.
Để đáp lại hành động của Pháp Hoàng đế Nikolai I đưa quân đoàn bộ binh số 4 và 5 ra sông Danube diễn binh dằn mặt và cho bộ trưởng ngoại giao là Công tước Karl Nesselrode sang điều đình với triều đình Ottoman.
Tuy nhiên, Nga rất muốn hòa hoãn với Anh và Pháp, vì chủ ý của cuộc tranh cãi chỉ là giữa Nga và Ottoman, không liên hệ gì đến Anh và Pháp. Nga muốn ngầm tránh tạo cơ hội cho Anh và Pháp hợp binh nhau chống lại mình.
Đồng thời Nikolai tiếp tục trấn an Tây Âu rằng Nga đã ngưng bành trướng, và vụ lộn xộn tại Đế quốc Ottoman chỉ là chuyện tôn giáo địa phương mà thôi. Kế đến, hoàng đế Nga gửi sứ giả Aleksandr Sergeyevich Menshikov sang Ottoman đòi ký hiệp ước riêng rằng nếu người đứng đầu Sultan Ottoman là Abdul Mejid không đủ khả năng bảo vệ giáo hội và giáo dân Công giáo thì Nga có quyền vào giúp. Menshikov đi tàu lớn vào cảng Porte, ngay lập tức kết tội Abdul Mejid là thông đồng với Pháp, và đòi thay đổi các nhân viên cao cấp trong chính quyền Ottoman.
Lúc bấy giờ cố vấn ngoại giao Anh là Hugh Rose đang có mặt tại tòa đại sứ Anh tại kinh đô Constantinopolis. Ông thu nhận tin tình báo về quân Nga đang tập trung dọc sông Danube và vấn đề Menshikov đặt ra ở cảng Porte.
Rose liền truyền lệnh cho hạm đội Anh từ miền đông Địa Trung Hải kéo về hướng Constantinopolis. Tuy nhiên mệnh lệnh này bị đề đốc hạm đội Anh từ chối, do ông cho Rose không được lạm quyền. Chỉ có hải quân Pháp kéo đến giúp Ottoman.
Những vụ xung đột đầu tiên
Trước sự vụ rối ren như vậy, Thủ tướng Anh lúc đó là George Hamilton-Gordon gửi Stratford Canning sang khuyên Sultan Abdul Mejid I của Ottoman bác bỏ hiệp ước với Nga. Khi hoàng đế Nga hay tin Menshikov làm hỏng chuyện liền viện cớ thay mặt Sultan Ottoman để giải quyết vấn để tôn giáo, kéo quân vào vùng Moldavia và Wallachia thuộc miền đông châu Âu.
Khu vực này tuy thuộc Ottoman nhưng với nhiều giáo dân Chính Thống giáo, lâu nay vẫn nằm dưới quyền bảo hộ của Nga. Hoàng đế Nga hy vọng những cường quốc châu Âu, nhất là Đế quốc Áo là nước láng giềng, sẽ không phản đối việc Nga xâm chiếm các lãnh thổ thuộc Ottoman này.
Tuy nhiên, Chính phủ Anh đã phản ứng và đưa hạm đội tiếp ứng cho hải quân Pháp tại eo biển Dardanelles (đường biển nối biển Đen và Địa Trung Hải phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ). Thế lực quân sự châu Âu lúc này cũng đang mong hòa giải, chỉ biểu dương quân lực chứ chưa muốn gây chiến. Đại diện chính phủ 4 nước lớn Anh, Pháp, Áo và Phổ sau đó họp mặt tại Viên viết thư giảng hòa giữa Nga và Ottoman.
Nga chấp thuận các điều kiện trong thư nhưng Ottoman từ chối. Khi Anh, Pháp và Áo đề nghị sửa lại các điền kiện thì Nga lại phản đối. Tuy Áo và Phổ muốn tiếp tục thương lượng, Anh và Pháp cho rằng Nga ngoan cố. Sultan Abdul Mejid I, khi thấy thương lượng không xong bèn kéo quân ra đánh quân Nga đang đóng tại sông Danube.
Hoàng đế Nga Nikolai I (1825-1855) |
Ngày 30 tháng 11 năm 1853 hoàng đế Nikolai trả miếng bằng cách đem chiến hạm đến bắn tan tành đoàn tàu chiến của Ottoman đang neo tại cảng Sinope (Thổ Nhĩ Kỳ). Sau khi bắn phá xong Hoàng đế Nga đã không chịu rút quân ra khỏi hai lãnh thổ khu vực sông Danube. Trước tình hình như vậy, Pháp và Anh đã chính thức tuyên chiến với Nga để ủng hộ Ottoman.
Cơ hội hòa giải
Trước khi ngồi vào bàn đàm phán, Hoàng đế Nga nghĩ rằng Áo sẽ theo phe Nga, vì Nga đã từng giúp Áo đánh dẹp cuộc nổi dậy năm 1848. Nhưng Áo lại sợ Nga lợi dụng lấn quyền nên từ chối không theo, và cũng không hứa sẽ giữ thế trung lập. Tuy không kéo được Áo về phía mình nhưng Nga vẫn quyết định từ chối 4 điều kiện hòa giải mà Anh và Pháp đưa ra, nội dung 4 điều kiện hòa giải là:
1. Nga phải bỏ chủ quyền ở các lãnh thổ vùng sông Danube mà họ mới cưỡng chiếm.
2. Nga phải bỏ các quyền bảo hộ với giáo dân Chính thống giáo trong Ottoman;
3. Luật quy ước hàng hải năm 1841 phải được xem lại và sửa đổi;
4. Quốc gia nào cũng được quyền sử dụng sông Danube.
Và khi hoàng đế Nikolai I từ chối các điều kiện này thì cuộc chiến tranh vùng Crimea bắt đầu.
Nguồn: Wikipedia, GDVN