Năm 2000, ứng viên Dân chủ Al Gore đạt đa số phiếu phổ thông nhưng lại thua số phiếu của Cử tri đoàn nên đã phải nhường bước cho ông George Bush của đảng Cộng hòa vào Nhà Trắng.
Trên thực tế người dân Mỹ không trực tiếp bầu chọn tổng thống của mình, thay vào đó là một cử tri đoàn gồm các đại cử tri bỏ phiếu. Trong các cuộc chạy đua vào Nhà Trắng gay cấn, vai trò của cử tri đoàn càng cao.
Mỗi bang có số lượng đại cử tri (Elector) nhất định hợp thành cử tri đoàn (Electoral College) dựa trên quy mô dân số của bang đó. Nghĩa là bang nào càng đông dân thì càng nhiều đại cử tri. Về mặt kỹ thuật thì các cử tri Mỹ đi bỏ phiếu để bầu đại cử tri chứ không phải bầu trực tiếp cho các ứng viên tổng thống.
Khi Hiến pháp Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1787, chưa có một quốc gia Châu Âu nào cho phép công dân trực tiếp bầu vị nguyên thủ quốc gia. Do đó, các tác giả của bản hiến pháp Mỹ đã thiết kế một cơ chế hai bước, theo đó người dân được đi đầu phiếu nhưng những lá phiếu của họ sẽ được chuyển tới một nhóm nhỏ – được gọi là Đại cử tri đoàn. Nhóm này sẽ hội họp tại từng tiểu bang độ 1 tháng sau cuộc đầu phiếu phổ thông để chọn Tổng thống nước Mỹ.
Những người soạn ra bản Hiến pháp năm 1787 của nước Mỹ cũng bác bỏ cả hai cách thức bầu tổng thống là thông qua Quốc hội (do chia rẽ quyền lực) lẫn qua cách bầu trực tiếp của cử tri (do lo ngại người dân sẽ chỉ bầu cho ứng viên người địa phương và các bang lớn sẽ nắm vai trò thống trị).
Một nhân tố khác khiến bầu cử Mỹ gắn với lá phiếu của cử tri đoàn là các bang miền nam nước Mỹ, thời bản hiến pháp mới được soạn thảo, nô lệ tại khu vực này không có quyền bỏ phiếu nhưng được tính bằng 3/5 người thường khi thống kê quy mô dân số của mỗi bang. Ý tưởng ban đầu là chỉ có những người có vai trò ở mỗi bang mới hợp thành những đại cử tri trong cử tri đoàn bang đó. Qua năm tháng, cử tri đoàn thay đổi và ngày càng phản ánh tốt hơn nguyện vọng của người dân.
Giáo sư Curtis Gans thuộc Đại học American giải thích: "Về mặt số lượng, số phiếu đại cử tri tương đương với con số đại biểu Quốc hội ở mỗi bang, tức là 2 cho Thượng viện, và số dân biểu ở bang đó. Họ được bầu theo nguyên tắc người thắng chiếm tất cả các phiếu đại cử tri đoàn của bang liên hệ".
California là bang đông dân nhất nước Mỹ nên cũng có số lượng phiếu đại cử tri lớn nhất là 55. Một số bang khác có nhiều đại cử tri như Florida, Pensynvania, Ohio... đều có trên 20 phiếu. Trong khi đó một số bang nhỏ và đặc khu Washington DC chỉ có 3 phiếu đại cử tri.
Tổng cộng nước Mỹ có 538 đại cử tri. Tại hầu hết các bang của Mỹ (trừ hai bang Maine và Nebraska), các đại cử tri trong cử tri đoàn bang đó sẽ bỏ phiếu theo thể thức "được ăn cả ngã về không". Nghĩa là nếu ứng viên nào giành được đa số phiếu của cử tri phổ thông thì sẽ nhận được tất cả lá phiếu của đại cử tri bang đó.
Trường hợp ngoại lệ là hai bang Nebraska và Maine, vốn chỉ định đại cử tri theo tỷ lệ tương ứng với số phiếu phổ thông tại mỗi đơn vị bầu cử Quốc hội. Ngoài ra còn có thêm ba phiếu đại cử tri đại diện cho các vùng lãnh thổ không được coi là tiểu bang, như khu vực thủ đô nước Mỹ - District of Columbia.
Một đa số đơn giản, tức là trên 270 phiếu, sẽ giúp một ứng cử viên chiếm chiếc ghế Tổng thống. Tuy nhiên, nếu không có ứng cử viên tổng thống nào đạt được điều kiện đó, Hiến pháp Hoa Kỳ giao cho Hạ viện trách nhiệm chọn vị tổng thống kế tiếp - mặc dù tình huống này chưa từng xảy ra trong hơn 200 năm qua.
Vai trò của Cử tri đoàn thể hiện rõ nhất trong cuộc bầu cử 2000. Khi đó, ứng viên bước vào Nhà Trắng không phải là người đạt được đa số phiếu phổ thông (popular vote) mà chỉ cần đa số phiếu của Cử tri đoàn.
Cụ thể năm đó ứng viên Al Gore giành được 48,38% phiếu phổ thông cả nước so với 47,87% của ông George Bush. Tuy hơn, nhưng Al Gore vẫn phải nhường bước cho ông Bush vào Nhà Trắng, bởi ứng viên Cộng hòa này nhận được 271 phiếu đại cử tri, trong khi Al Gore chỉ được 266 phiếu. Bang quyết định chuyện thắng thua này là Florida, nơi mà toàn bộ 25 đại cử tri tại đây bỏ phiếu cho Bush, bất chấp việc chênh lệch phiếu phổ thông tại Florida của hai ứng viên chỉ là 537 lá.
Trước đó hơn một thế kỷ, tình thế trên cũng từng xảy ra trong bầu cử tổng thống Mỹ. Năm 1888, ứng viên Benjamin Harrison trở thành tổng thống Mỹ khi giành đa số phiếu đại cử tri trong Cử tri đoàn, trong khi thua đối thủ là Grover Cleveland về số phiếu phổ thông.
Một mặt trái khác của hệ thống bầu cử theo đại cử tri là tại nhiều bang, kết quả nghiêng về ứng viên nào đã được trù tính từ trước. Do đó ít có tính chất khuyến khích các cá nhân cử tri đi bỏ phiếu. Điều này cũng không hấp dẫn các ứng viên tới vận động tranh cử tại các bang được cho là đã "an bài" đó.
V.V (St)
Theo Tổ Quốc