
>> Trung Quốc cảnh báo chiến lược “xoay trục” của Mỹ
 >> Mỹ sẽ tăng cường quân lực ở Châu Á-Thái Bình Dương
 >> Mỹ sẽ mở rộng hệ thống phòng thủ tên lửa tại Châu Á
Đồng thời, những điều chỉnh lực lượng  của Mỹ tại Châu Âu cũng sẽ có ảnh hưởng đến sự lựa chọn của các nước  đang dao động giữa Châu Âu và Châu Á.
 Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ
 Thực hiện kế hoạch cắt giảm tổng quân số của lực lượng vũ trang Mỹ trong  những năm tiếp theo từ 570 nghìn quân như hiện nay xuống còn 490 nghìn  quân, Mỹ đã quyết định giảm một nửa sự hiện diện của mình tại Châu Âu.  Ngoài ra, Mỹ cũng dự định sẽ cắt giảm trong vòng 10 năm tới khoảng 8%  ngân sách quốc phòng (480 tỉ USD). Theo chủ trương này, Mỹ sẽ rút khoảng  40 nghìn quân ra khỏi Châu Âu. Đối tượng cắt giảm chủ yếu tập trung vào  lực lượng lục quân và các đơn vị thủy quân lục chiến.
 Tại Đức, Mỹ sẽ rút hai trong số bốn lữ đoàn thuộc Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở  Châu Âu và cắt giảm phần lớn các nhân viên dân sự. Động thái này được  coi là nhằm mục đích chuyển hướng bố trí chiến lược của Mỹ, hướng tới  giảm sự cồng kềnh của quân đội, tập trung cho trang bị kỹ thuật công  nghệ và làm tăng thêm tính cơ động. Các chuyên gia quân sự nhận định  rằng, quyết định của giới quân sự Mỹ về hạn chế sự hiện diện của mình  trên lục địa Châu Âu là “một đòn giáng mạnh vào khả năng của NATO”. Đồng  thời, quyết định này cũng sẽ làm suy yếu quan hệ đối tác giữa Mỹ với  EU.
 Những gì đang xảy ra hiện nay giống như một sự khởi đầu của cuộc chạy  đua vũ trang quy mô lớn giữa Mỹ với Trung Quốc. Để đạt được mục tiêu  chiến lược của mình, Mỹ hiện đang mở rộng việc tập trung quân tại khu  vực Châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 11.2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama  và Thủ tướng Australia Julia Ghilard đã thảo luận kế hoạch triển khai  căn cứ quân sự của Mỹ ở miền bắc nước này. Theo đó, tại thành phố Darwin  - nằm cách biên giới Indonesia 820km, Mỹ sẽ bố trí đơn vị thuỷ quân lục  chiến có quân số 2,5 nghìn người.
 Đồng thời, lãnh đạo quân sự Mỹ cũng đang chuẩn bị cấp thêm kinh phí cho  các hướng hoạt động độc lập, nghĩa là tăng thêm tiềm lực cho Bộ Chỉ huy  các lực lượng tác chiến đặc biệt. Một điểm nhấn khác của kế hoạch là đẩy  mạnh các thao tác quân sự trên các phương tiện an ninh mạng và chế tạo  máy bay trinh sát không người lái.
 Khủng hoảng trong nội bộ NATO
 Các nhà phân tích nhận định rằng, sự thay đổi “véctơ” chiến lược của Mỹ  hiện đang tác động tiêu cực đến toàn bộ hệ thống an ninh tập thể của  NATO. Trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ đã và đang bảo đảm an ninh tại Đại Tây  Dương và Thái Bình Dương, tạo điều kiện thuận lợi để Châu Âu ổn định  phát triển và tăng tiềm lực quốc phòng của họ. Nhưng nay, việc bảo đảm  an ninh của Mỹ dành cho Châu Âu đang dần đi đến hồi kết.
 Năm 2011, chính quyền Mỹ đã đưa ra một số tuyên bố cảnh báo rằng các đối  tác Châu Âu thuộc NATO sẽ không còn cơ hội để tính toán nhiều hơn đến  “thiện chí” của Mỹ, nước đang phải gồng mình thanh toán gần 75% tổng số  chi phí cho các hoạt động quân sự của NATO. Theo ý kiến của Mỹ, trong  điều kiện khủng hoảng kinh tế, các nước thành viên NATO đã không biểu lộ  được tính thống nhất. Thay vì cùng chung “giải cứu” cho ngân sách quân  sự NATO, các nước này đã trốn tránh theo cách riêng của họ. Phần lớn các  quốc gia thành viên NATO đã biện hộ rằng do khủng hoảng kinh tế, các  nước này cũng đang phải cắt giảm chi tiêu cho quốc phòng và buộc phải  rút gọn đáng kể số lượng quân đội.
 Các chuyên gia quân sự cho biết, năm 2011 Bộ Quốc phòng Anh đã công bố  sẽ cắt giảm khoảng 30 nghìn quân trong vòng 10 năm. Đồng thời, Anh tuyên  bố đình chỉ một số dự án quốc phòng lớn, đặc biệt là dự án đóng tàu sân  bay “Ark Royal”. Tướng Davis Richards - thuộc Bộ Quốc phòng Anh, khẳng  định rằng: “Các nỗ lực chính của Anh hiện tại là tập trung phục hồi nền  kinh tế, vì không một quốc gia nào có thể tự bảo vệ mình nếu nó bị phá  sản”.
 Để biện hộ cho hành động đóng góp “hạn chế” của mình, Anh đã chỉ ra sự  vỡ nợ của một số nước thành viên khác trong NATO. Trong cuộc gặp với Bộ  trưởng Quốc phòng Anh - ông Philippe Hamond hồi đầu năm 2012, Bộ trưởng  Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã cáo buộc, chỉ trích cả Đức và Italia về  việc không chịu nhận trách nhiệm nghĩa vụ về mình trong các hoạt động  của NATO. Ông cho rằng “có quá nhiều nước thành viên NATO hiện tại đang  mất khả năng thanh toán tài chính để phục vụ cho nhu cầu của NATO. Điều  này đang chứng tỏ sự không sẵn sàng ủng hộ của họ cho các khả năng thích  hợp và tương xứng”.
 Tháng 5.2011, Tư lệnh Lực lượng vũ trang Đức đã đệ trình kế hoạch cắt  giảm quân số quân đội Đức từ 220 nghìn quân hiện nay xuống còn 170 nghìn  trong vài năm tới. Theo các nhà lãnh đạo Đức, quân đội của họ cần phải  “nhỏ gọn hơn, ít quan liêu hơn và hiệu quả hơn”. Bên cạnh việc cắt giảm  quân số, quân đội Đức dự kiến sẽ đẩy mạnh trang bị vũ khí kỹ thuật nhằm  tăng tính cơ động và hiện đại. Đức cũng đã ngừng việc thực hiện các đơn  đặt hàng lớn đối với sản xuất máy bay trực thăng, tàu chiến và các thiết  bị quân sự khác. Theo tính toán của các chuyên gia quân sự Đức, từ nay  đến năm 2015, các biện pháp cải cách quân đội của họ sẽ cho phép tiết  kiệm khoảng 11,8 tỉ USD.
 Tại Italia, việc cắt giảm ngân sách quốc phòng trong năm thứ hai đang  tiếp tục được đẩy mạnh hơn. Lãnh đạo Italia mới đây đã công bố việc  ngừng mua lô máy bay tiêm kích F-35 của Mỹ, mặc dù đã có hợp đồng đặt  hàng từ trước. Năm 2011, Hà Lan cũng đã quyết định giảm số lượng binh sĩ  12 nghìn người và 30% trong số đó là nhân viên của Bộ Tổng tham mưu. Bộ  trưởng Quốc phòng Hà Lan Hans Hillen cho rằng, “vấn đề cắt giảm ngân  sách quốc phòng không phải là ý muốn của Châu Âu hay của Mỹ. Nguyên nhân  của nó nằm trong cuộc khủng hoảng kinh tế”.
 Nhận định của giới phân tích
 Các nhà phân tích nhận định rằng, sự thay đổi ưu tiên chiến lược của Mỹ  có thể sẽ còn gây hậu quả nặng nề hơn cho các nước đối tác trong NATO so  với nhìn nhận đánh giá bề ngoài. Mới đây, giới phân tích quân sự Mỹ đã  phàn nàn rằng “chiến dịch không kích Libya của các lực lượng liên quân  năm ngoái là một minh chứng cho sự thiếu khả năng, thiếu phối hợp chặt  chẽ và thiếu gánh vác trách nhiệm trong NATO. Nhiều quốc gia tham gia  vào chiến dịch đã nhanh chóng hết đạn dược và họ đã buộc phải khẩn cấp  yêu cầu sự hỗ trợ của Mỹ. Thậm chí, các đối tác Châu Âu còn không đủ khả  năng để tiếp nhiên liệu cho máy bay và tiến hành quan sát mục tiêu trên  không của đối phương”.
 Liên quan đến vấn đề này, Đại sứ Mỹ tại NATO - ông Ivo Daalder cũng đã  đưa ra nhận xét hồi tháng 2.2012 rằng: “Nếu như trước đây, có thể tính  đến việc Mỹ hỗ trợ, lấp đầy những khoảng trống nảy sinh trong phòng thủ  Châu Âu, thì nay những việc làm đó đang tiến dần đến kết thúc”. Về lời  nhận xét này, mới đây Bộ trưởng Quốc phòng Na Uy Espen Barth Eide cũng  đã bày tỏ mối quan ngại thực sự vì tình hình có thể sẽ còn trầm trọng  hơn, bởi những dự báo về suy giảm kinh tế trong EU tiếp tục gia tăng và  có thể vượt khỏi tầm kiểm soát.
 Như vậy, cùng với việc chuyển trọng tâm chiến lược của Mỹ sang Châu Á -  Thái Bình Dương, cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Eurozone đang tác  động, ảnh hưởng lớn đến khả năng quân sự của NATO, đến những vấn đề tồn  tại và đặc biệt đang làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa Mỹ với các thành  viên khác trong liên minh này. Vì thế, tiềm lực quân sự của NATO bị suy  giảm nghiêm trọng là điều khó tránh.
