Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề, Đất Việt xin giới thiệu với độc giả bài viết “Why China Wants South China Sea” (Vì sao Trung Quốc muốn có Biển Đông) của nhà nghiên cứu Tetsuo Kotani, Viện Okazaki, Nhật Bản, đăng trên mạng The Diplomat ngày 18/6/2011. Tuy được viết cách đây tròn một năm, nhưng những vấn đề mà tác giả nêu ra vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi. Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu Tetsuo Kotani cho rằng Bắc Kinh muốn độc chiếm Biển Đông không chỉ vì nguồn tài nguyên năng lượng và thủy sản, mà còn vì vùng biển này nằm trong chiến lược tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc. Trong nỗ lực nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực này đối với châu Á, nhà phân tích địa chiến lược Nicholas Spykman đã từng mô tả Biển Đông là “Địa Trung Hải của châu Á”. Và cũng giống như Đế quốc La Mã từng kiểm soát Địa Trung Hải và Mỹ kiểm soát vùng biển Caribe, Trung Quốc hiện đang tìm cách thống trị Biển Đông.
Một căn cứ tàu ngầm của Trung Quốc. Ảnh worldefensenews.com
Rõ ràng, những tuyên bố chủ quyền và sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc đang làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông. Mặc dù phần lớn sự chú ý tập trung vào sự thèm khát các nguồn tài nguyên thủy sản và năng lượng của Bắc Kinh, vùng biển “nửa kín, nửa hở” này là một phần không thể tách rời trong chiến lược tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc. Và nếu không hiểu rõ tầm cỡ của yếu tố tàu ngầm hạt nhân trong các tranh chấp ở Biển Đông, người ta không thể thấu hiểu sự bành trướng trên biển của Trung Quốc.
Sở hữu khả năng răn đe hạt nhân trên biển đáng tin cậy là một ưu tiên trong chiến lược quân sự của Trung Quốc. Tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân Type 092 (lớp Hạ) được trang bị tên lửa đạn đạo tầm ngắn phóng từ tàu ngầm JL-1 (SLBM) của Trung Quốc chưa từng tiến hành hoạt động tuần tra răn đe trên biển Bột Hải kể từ khi được đưa vào hoạt động hồi những năm 1980.
Tuy nhiên, Trung Quốc sắp có khả năng tấn công thứ hai đáng tin cậy khi nước này đưa vào sử dụng các tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm thế hệ hai JL-2 có tầm bắn ước tính 8.000km, cùng với các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cơ động (ICBM) DF-31 và DF-31A. Bên cạnh đó, Trung Quốc có kế hoạch đưa vào hoạt động tới 5 chiếc tàu ngầm Type 094 (lớp Tấn) được trang bị các tên lửa JL-2 và đang xây dựng căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam.
Rõ ràng, Trung Quốc đang tiến hành mọi nỗ lực để kiểm soát Biển Đông như Liên Xô trước đây đã từng làm ở biển Okhotsk trong thời Chiến tranh Lạnh. Trước đó, Liên Xô đã từng sử dụng các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân và được trang bị tên lửa đạn đạo (SSBN) nhằm chống lại khả năng triển khai các tên lửa đạn đạo ICBM của Mỹ ở trên mặt đất. Cùng với biển Barents, Moskva ưu tiên biến biển Okhotsk thành nơi trú ẩn an toàn cho các SSBN bằng cách cải thiện phòng thủ cho quần đảo Kuril và tăng cường Hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Vladivostok. Hạm đội Thái Bình Dương triển khai 100 tàu ngầm - cùng với 140 tàu chiến, trong đó có một tàu sân bay lớp Kiev - để bảo vệ lực lượng này ở biển Okhotsk.Hạm đội tàu ngầm Type 094 của Trung Quốc. Ảnh militaryphotos.net
Cũng giống như vậy, Trung Quốc cần bảo vệ các lực lượng ở Biển Đông, thay đổi chiến lược và học thuyết biển một cách phù hợp. Hiện nay, các chức năng chiến tranh chủ chốt của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) gồm: 1) bảo đảm các con đường tiếp cận trên biển tới Đài Loan; 2) tiến hành các chiến dịch ở phía Tây Thái Bình Dương để không cho các lực lượng thù địch tự do hành động; 3) bảo vệ các tuyến giao thông đường biển của Trung Quốc và 4) chặn các tuyến giao thông đường biển của kẻ thù.
Với việc đưa vào sử dụng tàu ngầm Type 094, việc bảo vệ các SSBN của Trung Quốc sẽ trở thành một chức năng quan trọng khác của Hải quân Trung Quốc và chức năng này sẽ đòi hỏi Trung Quốc phải tiêu diệt các lực lượng chống tàu ngầm chiến lược thù địch và kết liễu sự kháng cự của các nước cũng tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông. Khả năng chống và ngăn cản xâm nhập của Trung Quốc, nhất là đối với các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân ít gây tiếng động, có thể được sử dụng để chống lại các chiến dịch tấn công chống tàu ngầm của kẻ thù.
Các tàu sân bay của Trung Quốc, khi được đưa vào hoạt động, sẽ được triển khai ở Biển Đông để buộc các nước láng giềng cùng tuyên bố chủ quyền phải câm lặng.Đường "lưỡi bò" thâu tóm Biển Đông. Ảnh BBC News
Chiến lược này đã từng áp dụng gần hai thập kỷ trước tại thời điểm Trung Quốc bắt đầu bao vây Biển Đông để lấp đi khoảng trống quyền lực do việc Mỹ rút lực lượng quân sự ra khỏi Philippines năm 1991. Trung Quốc tái khẳng định các tuyên bố chủ quyền “mang tính lịch sử” đối với tất cả các đảo nhỏ, trong đó có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và gần 80% trong tổng số 3,5 triệu km2 vùng biển chạy dọc theo đường 9 đoạn hình chữ U mặc dù không có cơ sở pháp lý quốc tế nào.
Các hòn đảo nhỏ này có thể sử dụng làm các căn cứ không quân và hải quân cho các hoạt động tình báo, theo dõi và do thám, và là các căn cứ để tuyên bố chủ quyền đối với các phần sâu hơn trên Biển Đông để xây dựng căn cứ cho các tàu ngầm được trang bị các tên lửa đạn đạo và các tàu khác. Trung Quốc diễn giải Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) một cách độc đoán và không chấp nhận các hoạt động quân sự của các tàu và máy bay nước ngoài trên lãnh hải của nước này.
Tuy nhiên, các nỗ lực nhằm thống trị Biển Đông của Trung Quốc đang gặp phải nhiều thách thức lớn. Sự quyết đoán của Trung Quốc không chỉ thổi bùng sự thù hận của các nước cũng tuyên bố chủ quyền khác mà còn làm gia tăng quan ngại của các nước cũng đi lại trên biển khác như Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Trên hết, không giống như biển Okhotsk, Biển Đông được coi là tuyến hàng hải được quốc tế được thừa nhận.
Bên cạnh đó, do các tên lửa JL-2 không thể từ Biển Đông vươn tới Los Angeles, các tàu ngầm Type 094 cần phải đi vào biển Philippines, nơi Hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ trên biển (MSDF) của Nhật Bản đang tăng cường tiến hành các chiến dịch chống tàu ngầm.
Để làm yên lòng các nước láng giềng cũng tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc đã tiến hành các cuộc đối thoại và tham vấn với các nước này kể từ những năm 1990. Kết quả là sự ra đời của Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, trong đó kêu gọi giải quyết các vấn đề một cách hòa bình thông qua đối thoại. Tuy nhiên, Trung Quốc không sẵn sàng ký kết một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc.
Để đối phó với sự quyết đoán gần đây của Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đã tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật ở các vùng biển tranh chấp và tăng cường quan hệ với Mỹ. Sự hiện diện của Mỹ được cả hai nước coi là phương pháp răn đe rõ ràng nhất.
Về phần mình, Mỹ đã phản đối hành động quyết đoán của Trung Quốc tại nhiều diễn đàn khu vực bằng cách nhấn mạnh sự quan tâm của nước này đối với quyền tự do hàng hải. Mỹ đã thông báo triển khai nhiều tàu chiến ven biển ở Singapore, với hy vọng sự hiện diện của chúng sẽ làm tăng tác dụng răn đe đối với sự quyết đoán của Trung Quốc.
Mặt khác, do các tuyên bố chủ quyền quá đáng của Trung Quốc đã dẫn tới các sự cố như đã từng xảy ra năm 2001 với máy bay do thám EP-3 và năm 2009 với tàu Impeccable, Mỹ tìm kiếm thỏa thuận về biển với Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc không quan tâm tới bất cứ những gì tương tự vì một thỏa thuận như vậy sẽ bào chữa cho sự hiện diện liên tục của Mỹ ở Biển Đông.
Ấn Độ là một nước nữa có vai trò quan trọng ở Biển Đông. New Delhi sẽ sớm đưa vào sử dụng tàu ngầm được trang bị tên lửa đạn đạo đầu tiên Arihant và có kế hoạch đóng thêm hai tàu tương tự khác, được trang bị tên lửa đạn đạo tầm xa K-4. Tuy nhiên, cho đến khi thành công trong việc phát triển SLBM tầm xa, các tàu ngầm của Ấn Độ cần phải hoạt động trên Biển Đông để chĩa mũi nhọn vào Bắc Kinh.
Australia cũng quan ngại về tình trạng căng thẳng cao độ ở khu vực. Sự ổn định ở Đông Nam Á được các nhà hoạch định chính sách Australia coi là đặc biệt quan trọng vì một quốc gia thù địch có thể phô trương quyền lực hay đe dọa các tuyến thương mại đường biển và tuyến đường cung cấp năng lượng cho Australia. Kết quả, Australia sẽ tăng cường sự hiện diện quân sự ở các bang phía Bắc nước này, đồng thời cho phép quân đội Mỹ tiếp cận các căn cứ quân sự của nước này.
Trong khi đó, Tokyo cũng có những lợi ích chiến lược ở Biển Đông, một tuyến đường biển cực kỳ quan trọng, bởi vì khoảng 90% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua tuyến đường này. Tương quan lực lượng ở Biển Đông có ảnh hưởng lớn đối với an ninh trên các vùng biển xung quanh Nhật Bản, trong đó có biển Hoa Đông và biển Philippines. Bên cạnh đó, nếu Trung Quốc thành công trong việc đạt được khả năng tấn công thứ 2 trên biển bằng cách thống trị Biển Đông, điều đó sẽ hủy hoại sự tin cậy vào khả năng răn đe của Mỹ.
Nhật Bản đã công bố Những nguyên tắc chỉ đạo chương trình quốc phòng mới hồi tháng 12/2010, trong đó kêu gọi tăng cường các hoạt động tình báo, giám sát và do thám dọc theo chuỗi đảo Ryukyu và tăng cường lực lượng tàu ngầm. Trong cuộc gặp 2+2 (giữa các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao) của Nhật Bản và Mỹ ở Washington, hai bên đã đưa việc duy trì an ninh đường biển và tăng cường quan hệ với ASEAN, Australia và Ấn Độ vào các mục tiêu chiến lược chung.
Tất cả điều này có nghĩa là Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” ở Biển Đông. Càng tìm cách thống trị tuyến đường biển quốc tế huyết mạch này, Trung Quốc càng vấp phải nhiều sự thù địch. Để tránh làm tình hình trở nên tồi tệ thêm, Trung Quốc cần phải thay đổi các tuyên bố chủ quyền đường 9 đoạn sao cho phù hợp với UNCLOS (và Mỹ cũng cần nhanh chóng gia nhập UNCLOS). Chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục cách hành xử quyết đoán, các nước láng giềng trên biển của Trung Quốc sẽ tăng cường hợp tác chiến lược với Mỹ, Ấn Độ, Australia và Nhật Bản để thiết lập một hệ thống chiến tranh chống tàu ngầm trong khu vực.
Tuy nhiên, các quốc gia khác trong khu vực cũng cần tìm kiếm hợp tác. Trong chừng mực có thể, các nước này cần theo đuổi việc hợp tác khai thác các vùng biển tranh chấp và nguy cơ cướp biển ngày càng gia tăng ở Biển Đông cho thấy một lĩnh vực nữa để các quốc gia có thể phối hợp với nhau. Trong khi đó, các nước trong khu vực cần tiếp tục đối thoại với Trung Quốc về an ninh trên biển tại các diễn đàn như Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị Cấp cao Đông Á.
Tuy không mấy dễ dàng, nhưng việc xây dựng được một bộ quy tắc ứng xử sẽ là cơ hội tốt nhất để tránh xảy ra xung đột vũ trang.