Trong sự chuyển hướng nguy hiểm nhất liên quan đến diễn biến tại Biển Đông, ngày 23/7, Ủy ban Quân sự Trung ương Trung Quốc, đã phê chuẩn triển khai Quân đội giải phóng nhân dân tới bảo vệ các hòn đảo thuộc yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh.
Trước đó, trong tháng 6, Quốc vụ viện Trung Quốc đã  nâng địa vị hành chính của vùng biển này lên cấp thành phố, mà sau đó  gọi là "thành phố Tam Sa" với trụ sở đặt ngay tại đảo Phú Lâm thuộc quần  đảo Hoàng Sa. Hai động thái trên đã thể hiện rõ sự ngày càng táo tợn  cũng như đơn phương của Bắc Kinh, ngang nhiên đi ngược lại tinh thần  Tuyên bố chung của các bên về ứng xử trên Biển Đông DOC năm 2002, một  văn bản chính trị đa phương ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc, trong đó  kêu gọi giải quyết "các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng con  đường hòa bình, không đe dọa sử dụng vũ lực". Trở ngại lớn đối với việc giải quyết tranh chấp Biển Đông tất nhiên  chính là việc Trung Quốc phản đối bất kỳ giải pháp đa phương nào cho  những gì mà thực chất chính là một tranh chấp đa phương, xuất phát từ  những tuyên bố chủ quyền lãnh thổ chồng lấn của Trung Quốc, Đài Loan,  Philippine, Malaysia, Việt Nam và Brunei. Ngay từ đầu Trung Quốc luôn  nhấn mạnh chỉ đàm phán song phương với từng quốc gia Đông Nam Á. Trên thực tế, chính phủ Trung Quốc lấy lý do rằng "các vấn đề an ninh  chính yếu của khu vực liên quan đến tranh chấp lãnh thổ tốt nhất phải  được giải quyết bằng đàm phán song phương hơn là thông qua các công cụ  đa phương". Mặc dù Bắc Kinh đã đưa đa phương hóa vào trọng tâm hơn trong chính  sách đối ngoại, nhưng có vẻ như Bắc Kinh lại sẵn sàng đặt nó dưới các  nguyên tắc chủ quyền của mình. Điều này được thể hiện rõ trong Diễn đàn  khu vực ASEAN (ARF) lần thứ hai, hội nghị đã vạch ra ba giai đoạn phát  triển cho hợp tác an ninh khu vực: xây dựng lòng tin; ngoại giao phòng  ngừa; và, các chiến lược giải quyết xung đột. Trong khi tuân thủ giai đoạn đầu, Trung Quốc lại thể hiện sự tráo trở  trong giai đoạn thứ hai và thứ ba bởi ngoại giao phòng ngừa và các thủ  tục giải quyết tranh chấp gây bất lợi cho những vấn đề chủ quyền của  Trung Quốc. Chẳng cần nói cũng rõ, cơ chế song phương cho phép Trung Quốc gây  chia rẽ và hiểu nhầm giữa các bên tuyên bố chủ quyền biển Đông khác về  giải quyết tranh chấp lãnh thổ và giúp Bắc Kinh có được sự thoải mái hơn  trong quá trình đàm phán. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp Biển  Đông đã gặp khó khăn ngay từ ban đầu bởi thứ chủ nghĩa đa phương hạn chế  và tự phụ cũng như cái cách nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền quốc gia của  riêng Trung Quốc. Càng gây thêm rắc rối cuộc khủng hoảng, Trung Quốc đã đơn phương hành  động và mở rộng tuyên bố chủ quyền của mình ra gần như toàn bộ Biển  Đông. Điều này rõ ràng đã lật tẩy thứ chủ nghĩa đa phương hóa Trung Quốc  chỉ là một công cụ chính sách đối ngoại lố bịch. Quả thực, những động thái quả quyết của Trung Quốc tại Biển Đông  khiến cho chủ nghĩa đa phương của Trung Quốc chỉ còn là thứ giả bộ đơn  thuần, không hơn, không kém. Chủ nghĩa đa phương, theo nhận thức của  Trung Quốc, ngày càng đóng vai trò là một công cụ chiến lược thiết yếu  để chống lại chính sách bá quyền và đơn phương của Mỹ. Nó cũng được sử  dụng nhằm giúp Trung Quốc đạt được một trật tự chính trị và kinh tế quốc  tế bình đẳng hơn khi cho phép Bắc Kinh có tiếng nói lớn hơn trong các  quá trình hoạch định chính sách. Hơn nữa, chủ nghĩa đa phương cũng nhằm đẩy lùi "lý thuyết mối đe dọa  Trung Quốc" và xây dựng hình ảnh một Trung Quốc trách nhiệm trong các  nước Đông Nam Á. Nhưng, khi Trung Quốc có những động thái đơn phương tại  Biển Đông, thì quả thực, Trung Quốc đã hành động có khác gì với Mỹ. Chủ nghĩa đơn phương của Bắc Kinh tại Biển Đông cũng chính thức làm  mất đi ý nghĩa của Nhận thức an ninh mới mà từ đó đã khởi sinh ra nhận  thức về chính chủ nghĩa đa phương của Trung Quốc. Trớ trêu hơn, Nhận  thức an ninh mới được giải thích tại dịp kỷ niệm 30 năm thành lập ASEAN  vào tháng 12/1997 bởi Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc khi đó Tiền Kỳ  Tham là một mô hình hợp tác an ninh của Trung Quốc  nhằm chống lại mô  hình bá quyền và đơn phương của Mỹ. Nó mở ra những quyên tắc trong quan  hệ quốc tế dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, cùng có lợi, bình đẳng và hợp  tác. Nhận thức an ninh mới cũng cho rằng có thể tạo dựng "một hệ thống  mới để quản lý các quan hệ giữa các nước khác nhau về hệ thống xã hội,  giá trị và trình độ phát triển". Trong giai đoạn sau đó, bám lấy các  nguyên tắc Nhận thức an ninh mới, nền tảng của sự trỗi dậy hòa bình đã  hình thành, nhưng giờ này điều đó đã thực sự vỡ tan trước ảnh hưởng từ  các biện pháp đơn phương của Trung Quốc tại Biển Đông, đe dọa đẩy khu  vực vào một kịch bản miệng hố chiến tranh. Động cơ nâng cao vị thế quốc gia đặt trong khái niệm vị tha hòa bình  của Nhận thức an ninh mới trên thực tế không phải là một mô hình quan hệ  quốc tế thay thế. Khi giới lãnh đạo Bắc Kinh nói "gạt sang một bên các  tranh chấp và cùng khai thác chung" tại Biển Đông, điều đó mang bốn ý  nghĩa: "chủ quyền lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc; khi các điều  kiện chưa chín muồi để giải quyết tranh chấp lãnh thổ, các cuộc thảo  luận về chủ quyền nên được hoãn lại; lãnh thổ tranh chấp có thể được  khai thác chung; và mục đích khai thác chung là củng cố hiểu biết lẫn  nhau thông qua hợp tác và tạo điều kiện cho việc giải quyết ổn thỏa vấn  đề quyền sở hữu lãnh thổ". Bao quát trong quan điểm này của Trung Quốc về giải quyết các tranh  chấp lãnh thổ là hai vấn đề: Một là, giữ lại các quyền chủ quyền của  Trung Quốc bất chấp những tuyên bố chồng lấn; và hai là, phản đối đa  phương hóa trong giải quyết các xung đột. Rõ ràng, ý tưởng chủ nghĩa đa  phương và chủ quyền của Trung Quốc dựa trên mô hình xây dựng nhà nước  Westphalia và không hề tạo ra một hệ thống có tính thay thế. Do vậy, chủ nghĩa đa phương về cơ bản chỉ là một sự lố bịch trong  chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, tranh chấp biển  đông đơn thuần là vấn đề chủ quyền, trong đó không cho phép các thế lực  bên ngoài can thiệp vào. Trung Quốc đã lựa chọn cách giải quyết vấn đề  với các điều khoản gây kích động chủ nghĩa quốc gia, xây dựng sử ký giả  và phô trương sức mạnh quân sự. Nghịch lý thay là, một mặt Bắc Kinh kêu  gọi "khai thác chung" tại các vùng biển tranh chấp, nhưng mặt khác lại  chỉ trích Mỹ ủng hộ tự do hàng hải trên Biển Đông và khơi dậy "tâm lý  chiến tranh lạnh". Và cuối cùng, về các vấn đề liên quan đến chủ quyền  và lãnh thổ, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ đi theo xu hướng đơn phương  hơn. Điều này không chỉ phù hợp với sức mạnh ngày một lớn của Trung Quốc  mà còn bởi sự đi xuống tương đối của Mỹ. Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
------------
Tác giả: Đình Ngân theo idsa
Nguồn: Tuần Việt Nam
