Xung đột và toan tính đối với các nguồn năng lượng quý giá đã trở thành những đặc điểm của bức tranh quốc tế. Các cuộc chiến tranh lớn xung quanh dầu lửa đã diễn ra ở mọi thập kỷ. Một vài đợt bùng phát của năm 2012 sẽ chỉ là một phần bình thường của bức tranh chung.
Điều mà chúng ta đang chứng kiến là cả một chùm các cuộc xung đột liên quan đến dầu lửa trên khắp toàn cầu, với sự tham gia của khoảng mười quốc gia. Hãy coi những điểm bùng phát này là tín hiệu cho thấy chúng ta đang tiến vào một kỷ nguyên xung đột căng thẳng vì năng lượng.
Từ Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, Áchentina đến Philippin, có sáu khu vực xung đột – tất cả đều liên quan đến các nguồn dầu lửa – đã trở thành tin tức trong những tháng đầu của năm 2012:
1. Một cuộc chiến đang âm ỉ hình thành giữa Xuđăng và Nam Xuđăng: Ngày 10/4, các lực lượng từ nhà nước mới độc lập Nam Xuđăng chiếm trung tâm dầu lửa Heglig, một thị trấn được trao cho Xuđăng theo thỏa thuận hòa bình đã cho phép những người miền Nam ly khai năm 2011. Những người miền Bắc có căn cứ tại Khartoum đã huy động lực lượng riêng của mình và đẩy người Nam Xuđăng khỏi Heglig. Từ đó, giao tranh đã nổ ra dọc theo biên giới tranh chấp giữa hai nước, kéo theo các cuộc không kích vào các thị trấn tại Nam Xuđăng. Mặc dù giao tranh chưa đến mức độ chiến tranh tổng lực, nhưng các nỗ lực quốc tế để thương lượng một lệnh ngừng bắn và giải pháp hòa bình cho cuộc tranh chấp vẫn chưa thành công.
Cuộc xung đột này bị kích thích bởi nhiều yếu tố, trong đó có sự chênh lệch về kinh tế giữa hai nước Xuđăng và sự thù địch dai dẳng giữa người miền Nam (hầu hết là người châu Phi da đen và người Kitô giáo) và người miền Bắc (chủ yếu là người Arập và Hồi giáo). Nhưng dầu lửa – và thu nhập mà dầu mang lại – là tâm điểm của vấn đề. Khi Xuđăng bị chia cắt năm 2011, các mỏ dầu tốt nhất nằm ở phía Nam, trong khi đường ống dẫn dâu có khả năng vận chuyển dầu từ miền Nam tới các thị trường quốc tế (và vì thế mang lại nguồn thu) lại nằm trong tay người miền Bắc. Họ đã đòi hỏi “chi phí quá cảnh” đặc biệt cao – 32 đến 36 USD/thùng dầu so với giá thông thường là 1 USD/thùng – cho việc đưa dầu từ miền Nam tới thị trường. Khi những người miền Nam từ chối chấp nhận giá này, người miền Bắc tịch thu số tiền mà họ đã thu được từ xuất khẩu dầu của miền Nam nguồn thu quan trọng duy nhất của họ. Đáp lại, người miền Nam ngưng sản xuất dầu và có hành động quân sự chống phía Bắc. Tình hình hiện vẫn đầy khả năng bùng nổ.
2. Va chạm hải quân ở Biển Đông: Ngày 7/4, một tàu chiến của hải quân Philíppin, chiếc Gregorio del Pillar dài 378 fit đến bãi đá ngầm Scarborough ở Biển Đông và bắt giữ tám tàu đánh cá Trung Quốc đang hạ neo ở đó, buộc tội các tàu này có hoạt động đánh bắt trái phép trong vùng biển chủ quyền của Philíppin. Trung Quốc ngay lập tức cử hai tàu hải quân đến khu vực, tuyên bố rằng tàu Gregorio del Pillar đã sách nhiễu các tàu Trung Quốc ở các vùng biển của Trung Quốc chứ không phải của Philippin. Các tàu đánh cá cuối cùng được phép đi khỏi mà không xảy ra sự cố nào thêm, và căng thẳng đã phần nào giảm bớt. Tuy nhiên, cả hai bên đều không có biểu hiện nào sẽ từ bỏ tuyên bố chủ quyền với bãi đá ngầm này, và cả hai tiếp tục triển khai tàu chiến ra khu vực tranh chấp.
Giống như ở Xuđăng, có nhiều nguyên nhân cho cuộc va chạm này, nhưng năng lượng là động cơ chủ đạo. Biển Đông được cho là nơi có trữ lượng lớn dầu và khí đốt, và tất cả các quốc gia xung quanh, trong đó có Trung Quốc và Philíppin, muốn khai thác các mỏ dầu này. Manila tuyên bố 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế tại Biển Đông tính từ bờ biển phía Tây cua mình, nơi mà Philíppin gọi là Biển Tây Philíppin. Các công ty Philíppin nói rằng họ đã tìm thấy các vùng có trữ lượng khí đốt lớn tại khu vực này và đã thông báo kế hoạch bắt đầu khai thác. Với tuyên bố rằng nhiều hòn đảo nhỏ nằm rải rác trên Biển Đông (trong đó có bãi đá ngầm Scarborough) là của mình, Bắc Kinh đã khẳng định chủ quyền với toàn bộ khu vực, trong đó có các vùng biển mà Manila có tuyên bố chủ quyền. Bắc Kinh cũng thông báo kế hoạch khoan dầu ở khu vực này. Sau nhiều năm thương lượng, chưa có một giải pháp nào được đưa ra giúp giải quyết cuộc tranh chấp và nhiều khả năng sẽ có đụng độ tiếp.
3. Ai Cập cắt dòng khí tự nhiên tới Ixraen: Ngày 22/4, Tổng công ty dầu lửa Ai Cập và Công ty khí đốt Ai Cập thông báo cho các quan chức năng lượng của Ixraen rằng họ sẽ “chấm dứt các hợp đồng khí đốt” theo đó Ai Cập cung cấp khí đốt cho Ixraen. Việc này xảy ra sau nhiều tháng biểu tình của thanh niên ở Cairô đã thành công trong việc lật đổ nhà độc tài Hosni Mubarak và hiện đang tìm kiếm một chính sách đối ngoại độc lập hơn cho Ai Cập nghĩa là ít chịu ảnh hưởng của Mỹ và Ixraen hơn. Điều này cũng diễn ra sau khi có hàng loạt cuộc tấn công vào các đường ống dẫn khí qua Sa mạc Negev tới Ixraen, điều mà quân đội Ai Cập dường như bất lực, không thể ngăn chặn.
Bề ngoài, có vẻ như quyết định này được đưa ra nhằm phản ứng trước tranh chấp liên quan đến việc thanh toán khí đốt mà Ixraen trả cho Ai Cập, nhưng tất cả các bên liên quan đều hiểu rằng đây một phần có động cơ từ việc chính phủ mới của Ai Cập muốn thể hiện sự thoát ly khỏi chế độ Mubarak đã bị lật đổ và chính sách hợp tác với Ixraen của ông ta. Mối quan hệ khí đốt giữa Ai Cập và Ixraen là một trong những kết quả quan trọng nhất của hiệp ước hòa bình năm 1979 giữa hai nước, và sự chấm dứt nó là tín hiệu rõ ràng về một thời kỳ bất hòa hơn; nó có thể gây ra thiếu hụt năng lượng tại Ixraen, đặc biệt là trong thời kỳ đỉnh điểm về nhu cầu của mùa Hè. Ở phạm vi lớn hơn, nó phản ánh xu hướng sử dụng năng lượng như một con bài chính trị.
4. Áchentina chiếm đoạt công ty dầu mỏ YPF: Ngày 16/4, Tổng thống Áchentina Cristina Fernández de Kirchner thông báo rằng chính phủ của bà sẽ tịch thu phần lớn cổ phần trong YPF, công ty dầu lửa lớn nhất của nước này. Theo kế hoạch của tổng thống, chính phủ sẽ chiếm 51% cổ phần kiểm soát trong YPF, hiện do công ty năng lượng lớn nhất của Tây Ban Nha Repsol YPF nắm giữ. Việc này được Mađrít và các nước châu Âu khác coi như một mối đe dọa lớn phải đối phó. Bộ trưởng Ngoại giao Tây Ban Nha Jose Manuel Garcia Margallo cho rằng hành động của Kirchner “phá vỡ bầu không khí đầm ấm và thân thiện từng có trong quan hệ giữa Tây Ban Nha và Áchentina”. Nhiều ngày sau, trong hành động được cho là bước đi trả đũa đầu tiên, Tây Ban Nha thông báo sẽ ngửng nhập khẩu nhiên liệu sinh học từ Áchentina, nước cung cấp chính của mình – khoản thương mại trị giá 1 tỉ USD mỗi năm cho người Áchentina.
Giống như trong các cuộc xung đột khác, vụ va chạm này có nhiều nguyên nhân, trong đó có chủ nghĩa dân tộc bắt nguồn từ thời Peron, cùng với ý muốn của Kirchner muốn tăng cường vị trí của mình trong bầu cử. Tuy nhiên, điều không kém phần quan trọng là việc Áchentina muốn có lợi ích kinh tế và chính trị lớn hơn từ các nguồn năng lượng của mình, trong đó có trữ lượng khí hóa thạch lớn thứ ba thế giới. Trong khi đối thủ lâu dài là Braxin đang giành được quyền lực và uy tín lớn từ việc khai thác các mỏ dầu ngoài khơi, Áchentina lại chứng kiến sản lượng dầu của mình giảm đi. Repsol có thể không bị đổ lỗi về điều này, nhưng nhiều người Áchentina tin chắc rằng với việc YPF đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ, nay sẽ có thể thúc đẩy việc khai thác nguồn năng lượng của đất nước, có thể có sự hợp tác với các đối tác nước ngoài năng nổ hơn như BP hay ExxonMobil.
5. Áchentina tái châm ngòi cuộc khủng hoảng Falklands: Tại cuộc họp thượng đỉnh các nước châu Mỹ ngày 15, 16/4 vừa qua tại Cartagena, Côlômbia, Áchentina tìm kiếm một lời lên án mới của các nước cùng bán cầu đối với việc Anh tiếp tục chiếm đóng đảo Falkland (còn gọi là Malvinas). Áchentina có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ tất cả các nước từ Canada và Mỹ. Với tuyên bố chủ quyền trên đảo, Áchentina đã liên tục đưa vấn đề ra kể từ khi thất bại trong cuộc chiến tranh giành đảo Falkland năm 1982, nhưng gần đây đã đẩy mạnh chiến dịch trên nhiều mặt trận – lên án Luân Đôn ở nhiều diễn đàn quốc tế và ngăn cản các du thuyền của Anh thăm đảo Falkland neo đậu tại các hải cảng của Áchentina. Anh đã phản ứng bằng việc gia tăng lực lượng quân sự của mình tại khu vực và cảnh báo Áchentina không nên có bất cứ manh động nào.
Khi Áchentina và Anh tiến hành chiến tranh nhằm tranh giành quần đảo Falkland, không có gì nhiều để tranh chấp ngoài thể diện quốc gia và thể diện của các nhà lãnh đạo hai bên (Thủ tướng Margaret Thatcher với một nhà độc tài quân sự) và một vài hòn đảo dân cư thưa thớt. Kể từ đó, giá trị của quần đảo đã tăng đáng kể do các cuộc thăm dò địa chấn gần đây ở các vùng biển xung quanh hòn đảo cho thấy có trữ lượng lớn dầu lửa và khí đốt. Nhiều công ty năng lượng có trụ sở ở Anh, trong đó có Desire Petroleum và Rockhốpper Exploration, đã bắt đầu khoan thăm dò tại khu vực và báo cáo là phát hiện trữ lượng hứa hẹn. Khao khát có được thành công như Braxin trong việc khai thác dầu khí ngoài khơi, Áchentina tuyên bố rằng các khu vực mới phát hiện nằm trong lãnh thổ của mình và việc nước khác đên thăm dò tại đó là bất hợp pháp. Tất nhiên, Anh khẳng định đây là lãnh thổ của mình. Không ai biết liệu cuộc khủng hoảng tiềm tàng âm ỉ này sẽ nổ ra như thế nào, nhưng việc lặp lại cuộc chiến năm 1982 – lần này là vì năng lượng – khó có thể không bị đặt ra.
6. Các lực lượng Mỹ huy động chiến tranh với Iran: Suốt mùa Đông và đầu mùa Xuân vừa rồi, dường như một cuộc xung đột vũ trang giữa Iran với Ixraen và hoặc Mỹ gần như không thể tránh khỏi. Không bên nào sẵn sàng lùi bước trước các yêu cầu then chốt, đặc biệt là về chương trình hạt nhân của Iran, và bất cứ ý kiến nào về một giải pháp nhượng bộ đều được cho là không thực tế. Tuy nhiên, hiện khả năng xảy ra chiến tranh đã giảm đi phần nào – ít nhất cho đến hết năm bầu cử ở Mỹ – khi mà các cuộc thương lượng cuối cùng đã diễn ra giữa hai cường quốc với Iran, và cả hai bên đã có lập trường thỏa hiệp hơn. Bên cạnh đó, các quan chức Mỹ đã giảm bớt lời lẽ chiến tranh và các nhân vật trong cộng đồng quân sự và tình báo Ixraen đã có tuyên bố loại bỏ khả năng hành động quân sự vội vàng. Tuy nhiên, Iran tiếp tục làm giàu urani, và các nhà lãnh đạo tất cả các bên nói rằng họ chuẩn bị đầy đủ để sử dụng vũ lực nếu đàm phán đổ vỡ.
Đối với người Iran, điều này có nghĩa là chặn Eo biển Hormuz, eo biển hẹp nơi một phần ba lượng dầu buôn bán của thế giới đi qua mỗi ngày, về phần mình, Mỹ khẳng định sẽ giữ cho eo biển này thông suốt và nếu cần thiết sẽ loại bỏ khả năng hạt nhân của Iran. Cho dù là để dọa Iran, chuẩn bị cho hành động thực, hay có thể là cả hai, Mỹ đã và đang tăng cường lực lượng quân sự ở Vịnh Pécxích, triển khai hai tổ hợp chiến đấu tàu sân bay ở khu vực lân cận đồng thời với việc phối hợp các lực lượng trên không và lực lượng tấn công đổ bộ.
Ai đó có thể tranh cãi về mức độ tác động của dầu lửa trong mối căng thẳng giữa Mỹ với Iran, nhưng không nghi ngờ gì việc cuộc khủng hoảng hiện nay có can hệ rất lớn đến triển vọng nguồn cung dầu toàn cầu, thông qua các mối đe dọa của Iran sẽ đóng cửa Eo biển Hormuz để trả đũa các lệnh cấm vận xuất khẩu dầu của Iran, và khả năng bất cứ cuộc không kích nào nhằm vào các căn cứ hạt nhân của Iran sẽ dẫn đến kết quả tương tự. Dù là cách nào, quân đội Mỹ chắc chắn sẽ đóng vai trò đi đầu trong việc hủy diệt lực lượng quân sự của Iran và tái lập sự thông suốt cho Eo biển Hormuz. Đây là cuộc khủng hoảng do năng lượng gây ra.
Và đây chỉ là một số trong các quốc gia có liên quan đến các xung đột về năng lượng. Bất cứ cuộc xung đột nào với Iran – bất kể với động cơ nào – đều chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn cung dầu lửa của tất cả các nước nhập khẩu dầu, gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế lớn với những hậu quả khó lường. Quyết tâm của Trung Quốc muốn kiểm soát các nguồn dầu lửa ngoài khơi đã đẩy nước này vào xung đột với các nước khác có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, và vào một tranh chấp tương tự với Nhật Bản ở Biển Hoa Đông. Các tranh chấp liên quan đến năng lượng kiểu này có thể thấy ơ Biển Caxpi và tại các khu vực Bắc Cực ngày càng ít băng.
Mầm mống xung đột và chiến tranh năng lượng xuất hiện cùng lúc ở nhiều nơi như vậy cho thấy chúng ta đang bước vào một thời kỳ mới trong đó các nhân tố nhà nước chính yếu sẽ có xu hướng dựa vào sử dụng vũ lực – hoặc đe dọa dùng vũ lực – để giành quyền kiểm soát các nguồn, dầu khí quý giá. Nói cách khác, chúng ta hiện đang sống trên một hành tinh sắp tăng tốc vì năng lượng./.
Tác giả Michael Klare là giáo sư nghiên cứu về hòa bình và an ninh thế giới, Đại học Hampshire.
Theo Huffingtonpost
Mỹ Anh (gt)
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông