TIN BIỂN ĐÔNG

HOÀNG SA - TRƯỜNG SA - VIỆT NAM

Mời hợp tác kinh doanh

Chủ nghĩa dân tộc và tương lai quan hệ Trung-Nhật

Bất ổn rất lớn sẽ xảy ra không những ở cấp độ khu vực mà còn tác động đến toàn cầu nếu như chủ nghĩa dân tộc mang tính phòng ngự ở Trung Quốc và Nhật Bản hiện nay chuyển sang trạng thái chủ nghĩa dân tộc tấn công. Liệu có kịch bản nào tốt đẹp cho tương lai quan hệ Trung-Nhật?

 Trịnh Vĩnh Niên-Viện trưởng Viện Đông Á, Trường đại học Quốc lập Xinhgapore

Trịnh Vĩnh Niên-Viện trưởng Viện Đông Á, Trường đại học Quốc lập Xinhgapore

Việc chính phủ Nhật Bản quốc hữu hoá quần đảo Điếu Ngư/Senkaku đang tồn tại tranh chấp chủ quyền, đã dẫn đến làn sóng biểu tình chống Nhật với quy mô lớn tại Trung Quốc. Đồng thời, tại Nhật Bản cũng diễn ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc nhưng với quy mô nhỏ hơn. Trung-Nhật bùng phát chủ nghĩa dân tộc, khiến mọi người cảm thấy lo ngại sâu sắc về tình hình an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Quan hệ Trung-Nhật sẽ đi về đâu? Hoà bình hay chiến tranh? Trong quan hệ giữa các quốc gia châu Á, quan hệ Trung-Nhật có thể nói là nhân tố quyết định hoà bình và an ninh tại khu vực này. Theo tác giả, có một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, hai nước Trung-Nhật lần lượt là nền kinh tế lớn thứ hai và thứ ba thế giới, nền kinh tế hai nước không chỉ có tính phụ thuộc lẫn nhau, mà nền kinh tế của mỗi nước cũng có tính phụ thuộc cao độ với các nền kinh tế khác. Vì vậy, khi chủ nghĩa dân tộc hai nước Trung-Nhật xảy ra xung đột, tất yếu sẽ tác động đến kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương, thậm chí ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu.

Thứ hai, sự tồn tại của liên minh Mỹ-Nhật cho thấy xung đột chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật tất yếu ảnh hưởng đến quan hệ Trung-Mỹ, trong đó quan hệ Trung-Mỹ lại là nhân tố mang tính kết cấu của thế giới hiện nay, có thể cấu thành ảnh hưởng mang tính thực chất đối với toàn bộ công việc thế giới. Mỹ luôn coi liên minh Mỹ-Nhật là trụ cột trong việc duy trì địa vị bá quyền của mình tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khi chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật xảy ra xung đột, bất kể nhìn từ góc độ nào, Mỹ rất khó đặt mình ở ngoài cuộc xung đột này. Can dự hay không can dự đều là quyết định khó khăn đối với Mỹ. Không can dự đồng nghĩa với việc Mỹ vứt bỏ liên minh Mỹ-Nhật, lòng tin và danh dự của Mỹ tại Nhật Bản sẽ mất hết, không những thế lòng tin và danh dự của Mỹ tại khu vực châu Á cũng vì thế mà không còn. Nếu can dự, điều này có nghĩa sẽ bị cuốn vào cuộc xung đột giữa hai nước lớn hạt nhân.

Sự phụ thuộc cao độ về kinh tế giữa hai nước Trung-Mỹ, đã hình thành nên cách nói “nước Trung-Mỹ” mà một số học giả Mỹ từng nêu ra, hai nước có thể trở thành “chủ nghĩa khủng bố” tài chính đối với nhau. Khi Trung-Mỹ xảy ra xung đột, kết quả sẽ không giống như Mỹ và Liên Xô của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, mà sẽ giống như xung đột giữa Athena và Sparta của thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Đối kháng Mỹ-Xô cuối cùng dẫn đến Liên Xô tan rã, nhưng khi Trung-Mỹ đối kháng, nhiều khả năng sẽ dẫn đến cả hai đều tổn thương.

Về điểm này Mỹ rất rõ. Vì thế, cho dù từ góc độ địa chính trị, Mỹ hài lòng nhìn thấy quan hệ căng thẳng nhất định Trung-Nhật, nhưng nếu Mỹ cảm thấy xung đột giữa Trung-Nhật có khả năng xấu đi nghiêm trọng, lập tức Mỹ trở nên căng thẳng. Thái độ mâu thuẫn này của Mỹ, gần đây đã được bộc lộ rõ. Một mặt, Mỹ thể hiện với Nhật Bản, liên minh Mỹ-Nhật có thể sử dụng thích hợp đối với đảo Điếu Ngư/Senkaku; mặt khác Mỹ cũng kêu gọi Trung Quốc và Nhật Bản không nên sử dụng vũ lực giải quyết vấn đề. Một bên là “nước Trung-Mỹ” về mặt kinh tế, một bên là “liên minh Mỹ-Nhật” về mặt quân sự, chiến lược, Mỹ muốn giữ được sự cân bằng giữa hai mặt này, là một việc làm rất khó khăn. Nhưng khi mất cân bằng, không chỉ dẫn đến xung đột giữa hai nước Trung-Nhật, mà còn dẫn đến xung đột giữa hai nước Trung-Mỹ. Song, hành vi của Mỹ những năm gần đây khiến mọi người ngày càng hoài nghi về năng lực Mỹ có thể làm được sự cân bằng này.

Thứ ba, so sánh chủ nghĩa dân tộc giữa Trung Quốc với các quốc gia châu Á khác, chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật có tính đặc thù. Chủ nghĩa dân tộc giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philíppin có thể được coi là chủ nghĩa dân tộc thông thường, cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc là tranh chấp cụ thể về lãnh thổ và biển đảo. Có thể nói, nội dung chủ yếu của chủ nghĩa dân tộc này là “lợi ích quốc gia” về mặt ý nghĩa vật chất. Tranh chấp và xung đột giữa “lợi ích quốc gia” của hình thái này, thường có thể quản lý. Nhưng chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc nhằm vào Nhật Bản lại có tính đặc thù.

Từ thời cận đại đến nay, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc vốn bắt nguồn từ Nhật Bản, cũng là vì nhân tố Nhật Bản cắm rễ, phát triển và lớn mạnh tại Trung Quốc. Từ Chiến tranh Giáp Ngọ đến Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Nhật Bản đem đến chiến tranh và tai hoạ to lớn cho nhân dân Trung Quốc, trong một giai đoạn lịch sử dài như vậy, đã thay đổi triệt để quan niệm chủ nghĩa dân tộc của người Trung Quốc. Nỗi nhục dân tộc và quốc gia của người Trung Quốc có liên quan trực tiếp với Nhật Bản. Nói như vậy, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc đối với Nhật Bản, trên cơ sở lợi ích quốc gia cụ thể, đã làm tăng thêm nhân tố tình cảm mãnh liệt. Nhân tố tình cảm mãnh liệt này khiến cho chủ nghĩa dân tộc khó có thể kiểm soát và quản lý. Có thể dễ dàng nhận thấy tính tình cảm thậm chí tính bạo lực được thể hiện ra trong phong trào biểu tình chống Nhật lần này,.

Những nhân tố này cho thấy hai nước Trung-Nhật làm thế nào để đối phó một cách lý trí với chủ nghĩa dân tộc của mỗi nước, điều có ý nghĩa quyết định đến an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nhìn từ quan điểm của chủ nghĩa lý trí, bất cứ vấn đề nào xuất hiện đều có nguyên nhân của nó. Chỉ cần có nguyên nhân, mọi người thường có thể tìm thấy phương pháp kiểm soát, quản lý thậm chí cuối cùng giải quyết được vấn đề. Chủ nghĩa dân tộc Trung-Nhật cũng như vậy. Muốn kiểm soát và quản lý chủ nghĩa dân tộc, đầu tiên cần phải hiểu con đường chúng sinh ra và phát triển. Nhìn từ góc độ lịch sử, bất cứ chủ nghĩa dân tộc nào hoàn toàn không phải là vừa sinh ra đã có tính tấn công và tính xâm lược. Chủ nghĩa dân tộc cuối cùng trở thành căn nguyên của xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia, là do con người sau này tạo nên, tức lực lượng chính trị coi chủ nghĩa dân tộc là một dạng sức mạnh để huy động và sử dụng vào quan hệ quốc tế. Về mặt ý nghĩa này, chủ nghĩa dân tộc của hai nước Trung-Nhật, nếu phát triển theo hướng không được kiểm soát, đều có tính nguy hiểm tiềm tàng dẫn đến xung đột hai nước. Đầu tiên, đối với chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, tính đến nay, biểu hiện đặc trưng chủ yếu của nó là mang tính phản ứng và tính phòng ngự, khác với chủ nghĩa dân tộc của Đức, Nhật Bản trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Cho dù hoạt động biểu tình dân tộc chủ nghĩa của Trung Quốc lần này có tính bạo lực, cũng là phản ứng đối với hành động quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku của Chính phủ Nhật Bản. Nhưng điều này hoàn toàn không có nghĩa, tính chất của chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc sẽ không thay đổi. Nếu điều kiện bên ngoài tiếp tục xấu đi, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc cũng có thể diễn biến thành chủ nghĩa dân tộc của Đức và Nhật Bản trước đây.

Chủ nghĩa dân tộc của Đức và Nhật Bản tại giai đoạn đầu tiên, cũng là mang tính phản ứng và phòng ngự, nhưng vì sao cuối cùng lại diễn biến thành chủ nghĩa dân tộc mang tính tấn công cao độ? Chủ nghĩa dân tộc mang tính tấn công vừa là kết quả của nhân tố chính trị nội bộ của Đức, Nhật Bản lúc đó thúc đẩy, đồng thời cũng là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa Đức, Nhật Bản và các quốc gia khác trong điều kiện quốc tế lúc đó. Một tính chất đặc biệt của chủ nghĩa dân tộc quốc gia là kết quả tác động lẫn nhau giữa quốc gia này với các quốc gia liên quan khác. Cũng có thể nói, chủ nghĩa dân tộc mang tính phản ứng và phòng ngự của Trung Quốc ngày nay, trong quá trình tác động lẫn nhau với chủ nghĩa dân tộc của các nước khác, cũng có thể trong tương lai, diễn biến thành một chủ nghĩa dân tộc mang tính tấn công. Hiện tại, chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc ngày càng thể hiện tính tự phát của mình. Chủ nghĩa dân tộc đã diễn biến thành một sự tồn tại khách quan tại Trung Quốc. Một mặt, Chính phủ thực sự có thể lợi dụng chủ nghĩa dân tộc, để chứng minh tính hợp lý, hợp pháp của một số chính sách đối nội, đối ngoại của mình. Song tính đến nay, Chính phủ Trung Quốc hết sức tiết chế. Từ trung ương cho đến địa phương, chưa có một nhân vật chính trị nào có thể trắng trợn động viên chủ nghĩa dân tộc, phải dùng đến chủ nghĩa dân tộc để đạt được mục tiêu chính trị đặc biệt. Ngược lại, Chính phủ Trung Quốc luôn quản lý và kiểm soát đối với chủ nghĩa dân tộc. Mặt khác, trong phương diện quản lý và kiểm soát chủ nghĩa dân tộc, Chính phủ Trung Quốc đối mặt với các thách thức ngày càng lớn. Chính phủ Trung Quốc thường gặp phải sự chỉ trích thậm chí là đả kích mạnh mẽ của những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc trong và ngoài nước. Một số quan chức chính phủ, nhất là quan chức trong hệ thống ngoại giao, bị dân chúng coi là “Hán gian” và “kẻ bán nước”. Đồng thời, chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc không những ngày càng thể hiện tình cảm quyết liệt, khiến cho nó có thể sinh ra tính phá hoại to lớn, mà còn làm tăng thêm áp lực đối với Chính phủ.

Vấn đề cũng hết sức quan trọng là- chúng ta cần có nhận thức đầy đủ về sự thay đổi của tính chất chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản. Vì Nhật Bản là quốc gia dân chủ, trong thời gian dài đến nay, chúng ta không có nhận thức đầy đủ về mối nguy hiểm tiềm tàng đối với chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản. Bất luận là Mỹ, phương Tây hay các quốc gia châu Á khác đều có thái độ “hiểu” đối với chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản, luôn cho rằng Nhật Bản là quốc gia “hoà bình”. Có hai lý do: một là Hiến pháp hoà bình của Nhật Bản, hai là sự thay đổi xã hội của Nhật Bản (như dân chủ, xã hội tiêu dùng, sinh ít con, dân số lão hoá…). Ngay tại Trung Quốc, những người có cách nhìn như vậy cũng không ít. Nhưng tình hình trên thực tế thì như thế nào?

Nhiều năm trở lại đây, chủ nghĩa dân tộc cực hữu của Nhật Bản luôn phát triển. Đồng thời, số phần tử chính trị ưu tú cũng đang động viên sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Giống với rất nhiều quốc gia phát triển khác, dân chủ đại chúng của Nhật Bản ngày càng khó tạo ra một Chính phủ có sức mạnh. Vì nhu cầu chính trị, các nhân vật chính trị luôn mượn cớ dân chủ, dùng phương thức chính trị chủ nghĩa dân tuý, huy động tài nguyên chủ nghĩa dân tộc đang tồn tại trong xã hội. Kết quả, vật hy sinh luôn là quan hệ giữa Nhật Bản và các quốc gia khác, nhất là quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc và Hàn Quốc. Hiện tượng này được thể hiện rõ nhất trong thời gian Junichiro Koizumi cầm quyền.

Xu thế thông thường của Chính phủ Nhật Bản hiện nay là, bất luận là đảng cầm quyền hay đảng đối lập, bất luận là nhân vật chính trị trung ương hay là nhân vật chính trị địa phương, bất luận là Chính phủ hay xã hội, đều có động lực rất lớn phải dùng đến chủ nghĩa dân tộc. Các nhân vật như Junichiro Koizumi (cựu Thủ tướng), Ishihara (Thị trưởng thành phố Tôkyô), Hashimoto (Thị trưởng Osaka), sở dĩ trở thành minh tinh chính trị của Nhật Bản, một trong những nguyên nhân rất quan trọng chính là họ giỏi động viên sức mạnh dân tộc chủ nghĩa. Có thể tưởng tượng, cùng với việc Chính phủ Nhật Bản tiếp tục suy yếu và sự nổi lên của những thành phần ưu tú chính trị dân tộc chủ nghĩa, xu thế phát triển của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản sẽ như thế nào trong khi sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản lại tất yếu sẽ làm chuyển hướng và kích động chủ nghĩa dân tộc của Trung Quốc. Rất rõ ràng, đúng như mọi người đã cảm nhận thấy, trong quan hệ Trung-Nhật, sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ngày càng thể hiện năng lượng to lớn. Trong đại xu thế như vậy, quan hệ Trung-Nhật sẽ đi về đâu? Tương lai quan hệ Trung-Nhật sẽ như thế nào? Mọi người có thể liên tưởng đến một số tình hình sau đây có thể trở thành hiện thực.

Thứ nhất, chính phủ hai nước Trung-Nhật quay trở lại lý trí, đồng thời mỗi bên tự có khả năng quản lý hữu hiệu chủ nghĩa dân tộc nước mình. Trong tình hình này, mặc dù chủ nghĩa dân tộc cực hữu của hai nước đôi khi sẽ bùng phát khiến hai nước thường xuyên tranh cãi, nhưng không đến mức xảy ra xung đột và chiến tranh. Về phương diện này, không cần nghi ngờ năng lực của Chính phủ Trung Quốc, nhưng Chính phủ Nhật Bản sẽ phải đối mặt với hoàn cảnh khó khăn rất lớn. Hiện nay, trong kết cấu dân chủ đại chúng, Nhật Bản rất khó xuất hiện một Chính phủ có sức mạnh và hiệu quả. Không chỉ có vậy, các phần tử ưu tú chính trị của Nhật Bản vì quyền lực, không chỉ không kiềm chế chủ nghĩa dân tộc, ngược lại phải dùng đến chủ nghĩa dân tộc.

Thứ hai, trạng thái lý tưởng nhất là Chính phủ hai nước có thể có quyền “tự chủ” tương đối (Chính phủ không chịu ảnh hưởng quá mức bởi chủ nghĩa dân tộc cực hữu), đạt được nhận thức chung “gác tranh chấp, cùng khai thác”, đồng thời có thể chuyển hoá nhận thức này thành chính sách cụ thể, từ đó thực hiện biến Đông Hải (biển Hoa Đông) thành vùng biển “hữu nghị” như cựu Thủ tướng Nhật Bản Hatoyama từng nói. Nhưng xét trong bối cảnh hiện nay, tình hình này là ý tưởng xa vời không thể đạt được. Đứng trước chủ nghĩa dân tộc của hai nước đều mạnh mẽ, tính “tự chủ” của Chính phủ, nói thì dễ làm thì khó.  

Thứ ba, quan hệ Trung-Nhật tồn tại bên cạnh chủ nghĩa dân tộc tiếp tục lớn mạnh và không ngừng xấu đi. Nhìn từ lịch sử, lôgíc của chủ nghĩa dân tộc là khi sức mạnh trỗi dậy và lớn mạnh đến một trình độ nhất định, tất yếu có lực lượng chính trị thông qua sử dụng chủ nghĩa dân tộc để nắm chính quyền đất nước. Nếu như vậy, có nghĩa hai nước đều có thể bị thế lực cực đoan gây sức ép, cuối cùng khiến xung đột và chiến tranh trở nên không thể tránh khỏi. Song, chiến tranh cũng không giải quyết được vấn đề. Chiến tranh có thể giải quyết, nhiều nhất cũng chỉ là vấn đề ai chiếm lĩnh thực tế đảo Điếu Ngư/Senkaku. Nhưng cho dù như vậy, bên nào thua trận cũng sẽ không thừa nhận bên kia. Như vậy, chiến tranh chỉ có thể để lại hận thù cho thế hệ tiếp theo mà thôi. 

Tình hình thứ tư chính là hai nước Trung-Nhật quay trở lại trạng thái truyền thống “cô lập” tương đối. Hai nước Trung-Nhật sống chung với nhau hàng nghìn năm, nhưng về mặt chiến lược đa số thời gian hai nước đều ở trong trạng thái “cô lập” tương đối với nhau. Trạng thái cô lập tương đối này, hoàn toàn không gây trở ngại cho giao lưu trên nhiều phương diện như thương mại, văn hoá. Nhưng khi hai nước có ý muốn tiến hành trao đổi trên bình diện chiến lược, hoặc nói quan hệ chính trị hai nước quá gần, hai bên sẽ không có cuộc sống “hạnh phúc”. Mặc dù hai nước đều biết khái niệm “một núi không thể có hai hổ”, nhưng hai nước lại có thể nằm ở hai “đầu núi”, đều có đủ năng lực bảo vệ mình. Để tránh xung đột và chiến tranh quy mô lớn, trở về trạng thái truyền thống “cô lập” tương đối này cũng là một sự lựa chọn lý trí. Giống như trong quá khứ, trong trạng thái “cô lập tương đối”, cũng có thể phát triển giao lưu nhân dân mang tính thực chất, nhất là về lĩnh vực văn hoá và thương mại.

Trịnh Vĩnh Niên-Viện trưởng Viện Đông Á, Trường đại học Quốc lập Xinhgapo, đồng chủ biên “Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc quốc tế”

Theo China Review News

Văn Cường (gt)

Nguồn: Nghiên Cứu Biển Đông
 

Luật Biển Việt Nam
Tinbiendong.com trân trọng giới thiệu toàn văn Luật Biển Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 21-06-2012 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 02-07-2012. Luật Biển Việt Nam gồm 07 chương 55 điều, có  hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2013.
Mời hợp tác kinh doanh
Copyright ©  2012  Tin Bien Dong . All rights reserved.
Trang tin đang trong quá trình chạy thử nghiệm và  chờ xin phép Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép hoạt động.
Mạng thông tin điểm tin, sưu tầm, lưu trữ thông tin Biển Đông và thế giới
Điện thoại:04.3972 4800 - Fax:04.3972 4801 - Mobile: 0127 399 6475 // 098 300 6168 ( Mr. Mạnh Toàn ) -  Email Tin kinh te