Mạng phân tích thông tin tình báo chiến lược Stratfor của Mỹ gần đây cho rằng ngoài cuộc chiến tranh năm 1962, Ấn Độ và Trung Quốc không mấy tác động đến nhau về mặt địa chính trị. Tuy nhiên, những thay đổi trong cấu trúc kinh tế của Trung Quốc đã dẫn đến việc Bắc Kinh ngày càng hoạt động nhiều tại Ấn Độ Dương – khu vực ảnh hưởng của Niu Đêli. Do đó, Ấn Độ cố gắng phát huy sức mạnh của mình ra Ấn Độ Dương để chống lại sự can dự ngày càng tăng của Trung Quốc.
Chia tách giữa Ấn Độ và Trung Quốc là dãy núi Himalaya. Đối với Ấn Độ, Nêpan và Butan là những quốc gia đệm ở khu vực biên giới Đông Bắc và Tây Bắc giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Bang miền núi Sikkim là tấm đệm thứ 3 giữa hai quốc gia và chính phủ của cựu Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đã tìm cách đưa toàn bộ bang này vào Ấn Độ. Khi các cuộc bạo loạn chống chế độ quân chủ bùng nổ tại Sikkim năm 1973, do lo ngại Trung Quốc có thể nhảy vào và đòi đây là một phần của Tây Tạng nên Ấn Độ đã sử dụng tổng hợp chiến thuật chính trị và quân sự để thuyết phục vị vua cuối cùng của Sikkim chấp nhận Sikkim là bang thứ 23 của Ấn Độ. Điều này giúp Niu Đêli có thêm đòn bẩy đối với Trung Quốc thông qua việc hỗ trợ các phần tử Tây Tạng ly khai đang sống tại Sikkim.
Có rất nhiều tranh chấp lãnh thổ dọc đường biên giới Ấn Độ – Trung Quốc. Trung Quốc có lãnh thổ rộng lớn trong khu vực Casơmia, ở phía Tây Bắc của Ấn Độ, tại 3 khu vực là Thung lũng Shaksgam, Aksai Chin và Demchok. Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền một phần đáng kể của khu vực hình thành nên vành đai Đông Bắc của Ấn Độ – bang Arunachal Pradesh.
Biên giới Ấn Độ – Trung Quốc, căng thẳng nhưng ít hành động
Dãy Himalaya đã ngăn chặn hiệu quả, không cho Ấn Độ và Trung Quốc thực hiện được hoạt động quân sự đáng kể nào chống lại nhau. Tuy nhiên, điều này không loại bỏ hoàn toàn được những căng thẳng. Hơn 6 thập kỷ qua, tại Ấn Độ, thường xuyên có những phản đối về các mối đe dọa tiềm tàng từ Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) ở nhiều khu vực dọc theo sườn phía Bắc của Ấn Độ (các bang Himachal Pradesh và Uttarakhand, nằm giữa Nêpan và Casơmia dọc biên giới với Trung Quốc, cũng bị xem là có nguy cơ bị quân đội Trung Quốc xâm nhập). Trong những năm gần đây, mối đe dọa này đã dẫn đến việc Niu Đêli tăng cường phòng thủ quân sự trong mối quan hệ với Bắc Kinh.
Các quan chức tại bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ thỉnh thoảng khẳng định rằng Trung Quốc đang xây dựng quân đội ở phía bên giới của họ. Những tuyên bố này thường theo sau bởi những báo cáo nêu bật những nỗ lực của Ấn Độ nhằm tăng cường an ninh bên phía mình và coi Trung Quốc là thù địch. Các nguồn tin của Trung Quốc cho Stratfor biết rằng cái đang diễn ra trong những trường hợp này là việc các quân đoàn công binh Trung Quốc thường kỳ xây dựng các công trình có mục đích phòng thủ, nhưng Ấn Độ lại coi như là những động thái tấn công. Làm trầm trọng thêm những căng thẳng này là những cáo buộc rằng nước này đang hỗ trợ cho những phần tử nổi loạn ở nước kia. Ấn Độ thì khẳng định rằng Trung Quốc đang hỗ trợ nhiều nhóm nổi dậy khác nhau ở các bang Đông Bắc của Ấn Độ như Assam, Nagaland, Mizoram, Tripura và Meghalaya. Trong khi đó thì Trung Quốc chỉ trích Ấn Độ về việc cung cấp chỗ trú ẩn cho các phần tử ly khai Tây Tạng.
Ngoài những cáo buộc và các biện pháp chuẩn bị quân sự này, biên giới của Ấn Độ với Trung Quốc vẫn bình yên trong 50 năm qua, ngoại trừ các sự cố hiếm hoi và nhỏ lẻ. Điều này khó có khả năng thay đổi trong tương lai gần.
Yếu tố Pakixtan trong quan hệ Ấn Độ – Trung Quốc
Việc lo ngại bị Trung Quốc bao vây đã tác động đến tư duy của các chiến lược gia và các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ. Phần quan trọng của tư duy này liên quan đến mối quan hệ đồng minh giữa Trung Quốc và Pakixtan – nước láng giềng đối thủ ở phía Tây của Ấn Độ. Trung Quốc đã sử dụng sự thù địch giữa Ấn Độ và Pakixtan làm đòn bẩy chống lại Niu Đêli.
Hợp tác quân sự và trợ giúp kinh tế cho Ixlamabát đã cho phép Trung Quốc thiết lập sự hiện diện đáng kể tại Pakixtan. Đối với Niu Đêli, sự tham dự của Trung Quốc vào việc phát triển hành lang giao thông ở khu vực Gilgit-Baltistan, Đông Bắc Pakixtan, mà Pakixtan đã giành được trong cuộc chiến tranh 1948 tại khu vực Casơmia, đã giúp nâng cao vị thế của Pakixtan tại vùng lãnh thổ tranh chấp này. Trong những năm gần đây, Niu Đêli đã cáo buộc rằng Pakixtan đã cho phép 11.000 quân PLA vào đồn trú tại Gilgit-Baltistan.
Trung Quốc có thể muốn sử dụng toàn bộ chiều dài lãnh thổ Pakixtan làm cầu nối cho hàng xuất khẩu và quan trọng hơn là nhập khẩu. Khả năng này sẽ giúp Trung Quốc tránh các tuyến đường biển giữa vùng biển phía Đông và phía Nam chạy qua eo biển Malắca và Ấn Độ Dương. Đây là một bước đi quan trọng giúp việc nhập khẩu năng lượng của Trung Quốc từ Trung Đông trở nên bảo đảm hơn.
Bắc Kinh có thể thực hiện được điều này nếu họ có thể thiết lập một hành lang giao thông tốt và an toàn giữa đèo Khunjerab ở biên giới Pakixtan – Trung Quốc và cảng Gwadar ở Biển Arập (một cơ sở Trung Quốc đã giúp xây dựng). Tuy nhiên, những trở ngại về kỹ thuật và tài chính cũng như các vấn đề về an ninh, khí hậu và địa chất, đã ngăn cản Trung Quốc xây dựng cơ sở hạ tầng đường sá và đường sắt dọc toàn bộ chiều dài lãnh thổ Pakixtan. Do sự rối loạn trong nước của Pakixtan và việc NATO sẽ rút quân khỏi Ápganixtan, về lâu dài, Bắc Kinh sẽ chỉ đạt được một phần nhỏ trong tham vọng này. Tuy nhiên, cảng Gwadar lại có giá trị hàng hải rất lớn đối với Bắc Kinh và có thể là một cảng hải quân quan trọng của Trung Quốc ở phía Tây Bắc của Ấn Độ Dương.
Mặc dù có sự can dự của Trung Quốc vào Pakixtan, nhưng vấn có nhiều khó khăn trong việc sử dụng sự can dự đó để chống lại Ấn Độ. Sự bất ổn tại Pakixtan và các phần tử vũ trang Hồi giáo quốc tế đóng tổng hành dinh tại đó đã biến Pakixtan thành một gánh nợ hơn là một tài sản. Quan hệ Trung Quốc – Pakixtan cũng bị ảnh hưởng bởi vai trò của Mỹ ở Nam Á và Bắc Kinh phải cân bằng những cam kết của mình với Ixlamabát và mối quan hệ với Oasinhtơn. Trung Quốc cũng không sẵn sàng hoặc không thể đảm nhận một vai trò tại Pakixtan, về mặt tài chính hoặc chính trị như Mỹ. Quan trọng hơn, nhu cầu địa chính trị của Trung Quốc không chỉ dừng lại ở Pakixtan.
Sự thay đổi kinh tế chính trị của Trung Quốc trong những thập kỷ gần đây đă buộc Bắc Kinh phải chuyển đổi từ cường quốc đất liền sang cường quốc biển. Nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng và các nguồn tài nguyên khác để nuôi bộ máy công nghiệp và do lĩnh vực xuất khẩu yêu cầu các tuyến đường vận chuyển từ bờ biển của Trung Quốc đến châu Phi và Trung Đông, Trung Quốc phải thiết lập và tăng cường sự hiện diện của mình ở Ấn Độ Dương cho phù hợp.
Mặc đù sẽ mất thời gian để Trung Quốc có thể xây dựng năng lực hải quân, nhưng Trung Quốc đã bắt đầu phát triển các tiền đồn ảnh hưởng trên khắp Ấn Độ Dương. Mặc dù trong nhiều trường hợp Trung Quốc cung cấp tài chính cho hoạt động xây dựng các cảng này, các dự án này tại Mianma, Bănglađét, Xri Lanca, Manđivơ và những nơi khác cũng là nguồn thu tiềm năng cho các công ty xây dựng của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc bị xâm nhập vào sườn phía Nam này đã làm trầm trọng thêm sự lo ngại của Ấn Độ đối với Trung Quốc trong vấn đề an ninh.
Những lựa chọn của Ấn Độ
Vì Trung Quốc là một cường quốc kinh tế lớn hơn và có khả năng hải quân tầm xa tốt hơn so với Ấn Độ, Niu Đêli cảm thấy phải sớm hành động để chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc đối với những cái mà Ấn Độ coi là lãnh hải của mình. Mặc dù Ấn Độ không có khả năng sử dụng Ấn Độ Dương cho việc phát huy sức mạnh ra bên ngoài khu vực, nhưng nước này đã thiết lập được ảnh hưởng đáng kể ở đây. Hơn nữa, do chính nhu cầu của Ấn Độ đối với các nguồn tài nguyên, đặc biệt là năng lượng, đang tăng lên, Ấn Độ cần phải bảo đảm an ninh cho các tuyến đường biển của mình từ châu Phi, Trung Đông và Đông Nam Á. Cùng với mong muốn của Ấn Độ trong việc bảo vệ quyền sở hữu các quần đảo Andaman và Nicobar tại vịnh Bengan và quần đảo Lakshadweep gần Biển Arập, nhu cầu này làm cho những va chạm giữa Trung Quốc và Ấn Độ trên khu vực Ấn Độ Dương là điều không thể tránh khỏi. Do Ấn Độ không có khả năng tự mình chống lại sức mạnh Trung Quốc trên Ấn Độ Dương nên Niu Đêli đã hỢp tác với Oasinhtơn. Oasinhtơn cũng có lợi ích riêng khi kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực.
Từ góc độ của Ấn Độ, phần phía Nam của vịnh Bengan là rất quan trọng vì nó gần với eo biển Malắcca. Eo biển Malắcca quan trọng đối với chính sách “Hướng Đông” 20 năm tuổi của Ấn Độ, một chính sách được thúc đẩy bởi nhu cầu năng lượng và thương mại và sự quan tâm mạnh mẽ đến việc chống lại Trung Quốc. Chính sách này liên quan đến việc Ấn Độ phát triển mối quan hệ chặt chẽ với Mianma và các nước khác trong khu vực vốn trước đây được gọi là các nước Đông Dương.
Trong 2 thập kỷ qua, Ấn Độ đã tái thiết lập quan hệ gần gũi với Mianma, một đồng minh lâu đời của Trung Quốc. Bằng việc tận dụng nhu cầu của Mianma cần có các đối tác quốc tế, do vị thế cùng khổ của nước này, Ấn Độ đã không chỉ phát triển nguồn tài nguyên khí đốt mà còn bắt đầu cạnh tranh với Trung Quốc, Ngoài ra, các thoả thuận hợp tác năng lượng với Việt Nam cũng cho phép Ấn Độ thiết lập sự hiện diện ở khu vực Biển Đông – một khu vực Trung Quốc coi là độc quyền ảnh hưởng.
Ấn Độ cũng xây dựng các mối quan hệ kinh tế gần gũi với các quốc gia Đông Nam Á quan trọng khác như Thái Lan, Xinhgapo và Malaixia. Điều này cho phép Ấn Độ thành lập một thoả thuận tự do thương mại với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Các nước Đông Nam Á cũng chia sẻ mong muốn của Ấn Độ trong việc chống lại ảnh hưởng đang tăng lên của Trung Quốc.
Ngoài Đông Nam Á, Ấn Độ cũng đang làm việc với Nhật Bản, nước cũng rất quan tâm đến việc đối trọng lại Trung Quốc. Cả hai nước đang cùng làm việc với Mỹ để thiết lập chỗ đứng tại Biển Đông – một thoả thuận 3 bên có thể có ích cho Ấn Độ. Tuy nhiên, khả năng của Ấn Độ trong việc chống lại Trung Quốc ở sườn phía Nam của mình bị hạn chế do tình hình nội bộ, chính trị và kinh tế của Niu Đêli.
Vai trò của thương mại song phương
Trong khoảng một thập kỷ qua, quan điểm chung của Ấn Độ đối với Trung Quốc đã thay đổi, tăng cường quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế đã bổ sung cho sự cạnh tranh chiến lược giữa hai quốc gia. Các mối quan hệ kinh tế Ấn Độ – Trung Quốc đã nâng tầm quan trọng của Ấn Độ tới mức mà Trung Quốc cảm thấy cần phải cân bằng các mối quan hệ lịch sử của mình với Pakixtan để hợp tác với Ấn Độ. Hơn nữa, mối lo ngại của Trung Quốc về sự bao vây chiến lược của Mỹ, trong đó Niu Đêli là một phần quan trọng, đã tạo thuận lợi cho Ấn Độ. Điều này giúp Niu Đêli có khả năng để đối phó với Ixlamabát – mối đe dọa an ninh chính của Ấn Độ.
Tuy nhiên, có một xu hướng dài hạn theo đó Trung Quốc sẽ trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ trong khi vai trò của Ấn Độ đối với Trung Quốc không thay đổi. Từ năm 2001 đến 2010, thương mại của Ấn Độ với Trung Quốc tăng đều đặn từ 3% lên 10% tổng thương mại. Tuy nhiên, thương mại của Trung Quốc với Ấn Độ tính theo phần trăm trong tổng thương mại của nước này gần như đứng im, tăng từ 1 – 2% trong giai đoạn trên. Năm 2010, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt khoảng 50 tỷ USD.
Xu hướng này phần lớn là do việc Ấn Độ tăng cường tiêu thụ thiết bị điện tử và máy móc của Trung Quốc (mặt hàng chiếm 42% nhập khẩu trong năm 2010). Năm 2001, Ấn Độ nhập khẩu 1,8 tỷ USD hàng hoá từ Trung Quốc, trong đó có khoảng 200 triệu USD hàng điện tử và 200 triệu USD máy móc. Đến năm 2010, Ấn Độ nhập tổng cộng 33 tỷ USD hàng hoá của Trung Quốc, trong đó hàng điện tử là 9 tỷ USD và máy móc là 5,6 tỷ USD.
Điều này có nghĩa là Trung Quốc có khả năng bán các hàng hoá có chi phí sản xuất thấp vào Ấn Độ, chiếm mất thị phần của các nhà sản xuất nội địa, trong khi Ấn Độ không thể bán cho Trung Quốc các loại hàng hoá chính của mình như các sản phẩm hoá dầu, kim cương, đồ trang sức, ôtô, hàng điện tử và các dịch vụ giá trị gia tăng cao như phát triển phần mềm, kỹ thuật và phát triển công nghệ thông tin. Sự mất cân bằng này có những tác động đến sự kình địch chung giữa hai quốc gia.
Cuối cùng, Ấn Độ phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và do đó sẽ ở vị trí yếu trong cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai nước – một cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra trên Ấn Độ Dương chứ không phải là ở biên giới chung giữa hai nước./.
------------------------------
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Nguồn: Anh Ba Sàm