Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong thư tịch triều Nguyễn
Thời  nhà Nguyễn có rất nhiều tài liệu chính sử, nhiều sách ghi chép của các  học giả nổi tiếng đương thời minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên hai  quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu cho thấy hoạt động thực thi  chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa  và Trường Sa đã phát triển với một trình độ cao hơn so với các triều đại  trước đó và mọi chi tiết đều được minh định, lưu trữ bằng những văn  bản, mộc bản chính thức của Nhà nước trong văn khố quốc gia.
 
Châu bản triều Nguyễn nói về việc
 vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh ra Hoàng Sa
Trước hết là cuốn Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến  Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí  (1833). Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí là một công trình biên khảo quy  mô lớn gồm 49 quyển ghi chép hầu hết các tư liệu lịch sử của các triều  đại phong kiến Việt Nam. Trong đó Địa Dư Chí quyển 5, phần Quảng Nam có  nói đến phủ Tư Nghĩa mà phần lớn nội dung nói về Hoàng Sa. Điều này  chứng tỏ Hoàng Sa là một bộ phận quan yếu đối với phủ Tư Nghĩa bấy giờ.  Hoàng Việt Dư Địa Chí, được Quốc Sử Quán khắc in vào năm Minh Mạng thứ  14 (1833), nội dung có nhiều điểm giống Dư Địa Chí, có đoạn nói về hoạt  động của đội Hoàng Sa.
Đại Nam Thực Lục Tiền Biên là loại tài liệu chính  thức đầu tiên viết về Hoàng Sa trong thời kỳ Chúa Nguyễn mà triều đình  nhà Nguyễn cho chép lại. Tài liệu này chép rằng, ngoài biển Quảng Ngãi  có một loại hình quần đảo tục gọi là bãi Hoàng Sa có hơn 130 cồn cát  không biết dài tới mấy ngàn dặm. Tài liệu xác định danh xưng "Vạn Lý  Hoàng Sa Châu”, các sản vật, việc lập đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải thuộc  đội Hoàng Sa để kiểm soát các đảo phía Nam, tức vùng Côn Đảo, Trường Sa  ngày nay.
 
 
Đây là một trong những bản đồ của sách "Phủ Biên Tạp Lục”
 		mô tả tỉ mỉ tình hình địa lý, tài nguyên ở
 		Hoàng Sa và Trường Sa cũng như công việc khai thác 
 		của Chúa Nguyễn đối với hai quần đảo này
 
 
Đại Nam Thực Lục Chính Biên (Quốc Sử Quán khắc in  năm 1848) có 11 đoạn trong nhiều quyền chép về Hoàng Sa và Trường Sa với  nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về việc thực thi chủ quyền  của Việt Nam trên hai quần đảo này. Quyển 50 kể chuyện, tháng Giêng năm  Ất Hợi (1815) vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra đảo  Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình (Phạm Quang Ảnh là người xã An Vĩnh,  Cù lao Ré, nay thuộc thôn Đông, xã Lý Vĩnh, đảo Lý Sơn). Quyển 52 chép,  năm Bính Tý (1816), vua Gia Long lại sai thủy quân và đội Hoàng Sa ra  đảo Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình. Như vậy, theo chính sử trong 2  năm liên tiếp vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn (Gia Long) đã ít nhất 2 lần  sai người ra Hoàng Sa thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo  này. Quyển 104 cho thấy lần đầu tiên trong chính sử của triều đình Việt  Nam ghi rõ lời của một hoàng đế Việt Nam (vua Minh Mạng) đã khẳng định  chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, khẳng định Hoàng Sa nằm  trong vùng biển Việt Nam và sai người dựng miếu, lập bia, trồng cây để  ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, tàu thuyền dễ nhận ra tránh mắc  cạn,.Quyển 122 chép: "Năm Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15 (1834) sai giám  thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người đi thuyền  đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ”. Quyển 165 chép lại  rất rõ quan điểm của Bộ Công và hoạt động của Bộ này tại Hoàng Sa: "Năm  Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu: "Xứ Hoàng Sa thuộc  cương vực mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ riêng về  hình thể xa rộng, ta mới chỉ vẽ được một, rồi lại cũng chưa biết nên vẽ  làm thế nào. Hàng năm, thường phái người đi xem xét cho khắp để thông  thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng  giêng, chọn phái thủy quân biền binh và giám thành đáp một chiếc thuyền ô  nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, giao cho hai tỉnh Quảng  Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa.  Không cứ là đảo nào, bãi cát nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức thì cứ  chiếu chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng và nước biển, bãi  biển xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế  hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét đo đạc rõ ràng, vẽ thành bản  đồ...”. Quyển này còn chép: "Vua đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất  đội thủy quân Phạm Hữu Nhật điều binh thuyền đi đem theo 10 cái bài gỗ  dựng bàn dấu mốc, chủ quyền”, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, mặt  khắc những chữ: "Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, thủy quân chinh  đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa đường độ chí  thủ lưu chí đẳng tự” (Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17, cai đội thủy quân  Phạm Hữu Nhật phụng mệnh đi đo đạc, cắm mốc ở Hoàng Sa để lưu dấu).  Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ là bộ sách do triều thần nhà Nguyễn  vâng mệnh vua ghi chép những việc làm của 6 bộ được hoàn thành trong  khoảng thời gian từ năm 1843 đến 1851 cũng có chép về việc lập miếu,  dựng bia, trồng cây ở Hoàng Sa và khảo sát, đo vẽ bản đồ toàn bộ khu  vực.
 

 
Đại Nam Nhất Thống Chí là
 bộ sách địa chí chính thức của nhà Nguyễn
 biên soạn từ 1865-1910
 
Bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí ấn hành năm Duy Tân  thứ 3 (1910) chép, có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc tỉnh  Quảng Ngãi, tiếp tục khẳng định hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc  Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản, cho biết thêm chi tiết về hành động thực  thi chủ quyền của Việt Nam thời vua Minh Mạng như sai binh lính xây  chùa, dựng bia... Việt Sử Cương Giám Sử Lược của Nguyễn Thông có đoạn tả  sơ lược về Hoàng Sa, có miếu cổ lợp ngói, bảng khắc mấy chữ "Vạn Lý Ba  Bình”, binh lính thường đem những hạt quả phương Nam mà vãi để mọc cây  làm dấu. Trong Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu của Quốc Sử Quán nhà  Nguyễn đời vua Minh Mạng có chép về chuyện xây chùa, xây miếu, dựng bia,  cắm mốc gỗ, vẽ bản đồ...ở Hoàng Sa như các sách nói trên. Ngoài ra,  sách này còn ghi chép việc có 90 người trên tàu buôn của Anh qua bãi  Hoàng Sa bị nạn đã ghé vào bãi biển Bình Định vào tháng 12 năm Bính Thân  (1836) cầu cứu. Vua sai người tìm nơi cho ở và hậu cấp tiền gạo. Thuyền  trưởng, đầu mục (thuyền buôn Anh) tỏ ra rất cảm kích. Vua sắc cho phái  viên đi Tây, Nguyễn Tri Phương đem những người ấy xuống bến ở Hạ Châu  đưa về nước”.
 

 
 
Một trang trong bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên, 
 		cuốn sử ký của Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn
 
Một nguồn tài liệu khác có giá trị cao để khẳng định  quá trình Nhà nước phong kiến Việt Nam thời Nguyễn có nhiều hành động  thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa là các châu bản triều  Nguyễn. Châu bản triều Nguyễn ghi chép cụ thể, rõ ràng các chỉ dụ của  nhà vua về các đoàn đi công vụ ở Hoàng Sa; các bản tấu của quan lại địa  phương về việc thuyền buôn nước ngoài mắc cạn ở Hoàng Sa; các bản tấu  của Bộ Công về những công việc mà các đoàn công vụ ra Hoàng Sa đã làm,  hoặc chưa làm xong... Đặc biệt có tờ tấu của Bộ Công (1838) cho biết  đoàn khảo sát Hoàng Sa trở về báo cáo đã lên được 25 đảo, còn một số đảo  hơi xa gặp gió bão lớn chưa lên được... Ngoài ra cũng còn rất nhiều tài  liệu khác là các trước tác, ghi chép của các học giả, quan lại đương  thời có liên quan tới việc thực thi chủ quyền của Nhà nước phong kiến  Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như bài Vọng Kiến Vạn  Lý Trường Sa của Lý Văn Phức chẳng hạn. Theo tài liệu này thì ngay từ  đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã từng thuê các thủy thủ dày dạn kinh nghiệm  và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của phương Tây trực tiếp dẫn dắt  một số con thuyền vượt Biển Đông để khảo sát, đo đạc vẽ bản đồ. Điều này  cũng góp phần lý giải bản đồ khu vực biển đảo của Việt Nam thời nhà  Nguyễn tuy vẫn giữ cách vẽ truyền thống nhưng cũng đã bắt đầu cập nhật  thông tin mới và độ chính xác cao như bản đồ hàng hải của các nước  phương Tây bấy giờ.
Nhóm PV Biển Đông
Theo Đại Đoàn Kết