Lầu Năm Góc cho hay hai máy bay ném bom B-52 của Mỹ đã bay cách quần đảo Trường Sa khoảng 30 km vào ngày 4-6, trong "nhiệm vụ huấn luyện thường lệ".
Lầu Năm Góc cho hay hai máy bay ném bom B-52 của Mỹ đã bay cách quần đảo Trường Sa khoảng 30 km vào ngày 4-6, trong "nhiệm vụ huấn luyện thường lệ".
Theo dữ liệu từ Earthrise, Trung Quốc đã xây trái phép hơn 400 công trình kiên cố trên đá Subi kể từ năm 2014.
Vào ngày 18.5, có thông tin quân đội Trung Quốc đã đưa máy bay ném bom chiến lược H-6K lên một hòn đảo thuộc Biển Đông. Nhật báo Nhân dân Trung Quốc đã đưa một đoạn video quay cảnh máy bay hạ cánh xuống đường băng, The Diplomat cho biết.
Mục tiêu dài hạn của Trung Quốc là từng bước thực hiện tối đa những đòi hỏi quá đáng về vấn đề chủ quyền biển, đảo mà họ đặt ra.
Nghị sĩ Mỹ đề nghị bãi chức Tổng thống Trump vì... “bất ổn thần kinh”; Nga cho máy bay ném bom chiến lược hoạt động sát Hàn Quốc, Nhật Bản; Chiến sự Syria vào giai đoạn quyết định, Mỹ và Nga bất ngờ “thân mật” nhau; Việt Nam phản đối Đài Loan diễn tập bắn đạn thật ở Trường Sa
Ba kịch bản ADIZ mà Trung Quốc có thể thiết lập ở Biển Đông là tại Hoàng Sa, Trường Sa và đối với đường 9 đoạn. Nếu ADIZ được Trung Quốc thiết lập thì hệ lụy về mặt ngoại giao, pháp lý sẽ là gì?
Báo Trung Quốc đưa tin nước này đã triển khai các hệ thống phóng rocket ra đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Philippines từ tuần trước điều binh sĩ và trang thiết bị quân sự đến đảo Thị Tứ mà nước này đang chiếm giữ trái phép của Việt Nam ở Trường Sa.
Sự hiện diện bất thường các máy bay chiến đấu, và việc xây dựng các bến cảng lớn có thể tiếp nhận các chiến hạm lớn nhất trong hạm đội Trung Quốc, cho thấy nếu cần họ có thể thực hiện các cuộc tấn công trong tương lai từ các hòn đảo nhân tạo xây dựng phi pháp ở Biển Đông, chuyên gia Mỹ cảnh báo.
"Nếu nói Hoàng Sa của Trung Quốc có lẽ phải lôi cổ mấy viên quan nằm dưới mồ trên đảo Hải Nam sống dậy mà chém đầu!"
Gần như các nhà buôn, nhà tu, nhà thám hiểm phương Tây giai đoạn từ thế kỷ 16 đến 19 đều xác định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là "của Hoàng đế An Nam" và "không ai tranh chấp".
Trước khi bị thế lực ngoại bang dòm ngó và nhảy vào chiếm đoạt, từ năm 1909 trở về trước, Hoàng Sa và Trường Sa đã trở thành đơn vị hành chính của triều đình nhà Nguyễn, được tổ chức và quản lý chặt chẽ từ chính quyền Trung ương.
ác vị vua chúa Việt Nam rất quan tâm khẳng định chủ quyền tại 2 quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa một cách lâu dài, ổn định. Đặc biệt là vua Minh Mạng.
Tính đến nay, tài liệu cổ được coi là mô tả chi tiết và cụ thể nhất về Hoàng Sa là sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn.
Người Pháp gọi là Archipel des ile Spratley, người Anh, người Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo. Philipines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinan Guto.
Tiếp vận, bảo vệ biển đảo quê hương, Xuồng CQ “made in Vietnam” tung hoành giữa Trường Sa
Tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN là tranh chấp dài nhất, phức tạp nhất, trên vùng biển rộng lớn nhất, nhiều đảo nhất và liên quan đến nhiều bên nhất trong lịch sử các tranh chấp thế giới. Tranh chấp được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhất, tốn nhiều giấy mực nhất trong thời gian qua nhằm tìm kiếm một giải pháp công bằng có thể chấp nhận.
Ban đầu, phi đội Be-12 nằm trong thành phần Trung đoàn 933, Sư đoàn 372 thuộc Quân chủng Không quân.
Sau năm 1975, để bảo vệ Trường Sa, các kỹ thuật viên hàng không Quân chủng Phòng không – Không quân đã nghiên cứu cải tiến vận tải cơ C-130 của Mỹ thành máy bay ném bom.
Trong các thập kỷ gần đây, trong quan hệ với VN, TQ đã hai lần sử dụng vũ lực để giành quyền chiếm hữu các đảo này, ngày 19.1.1974 tại Hoàng Sa và ngày 14.3.1988 tại Trường Sa.
Các tác phẩm và các văn kiện chứng minh quyền phát hiện và chủ quyền của VN trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có niên đại chỉ từ thế kỷ XV, các văn kiện trước đó có lẽ bị tiêu hủy và thất lạc dưới thời Bắc thuộc và các cuộc chiến tranh liên miên.
Kể từ 1885, luật pháp quốc tế về vấn đề thụ đắc lãnh thổ đã thay đổi sâu sắc. Đối với các đất vô chủ terres res nullius, đó là việc chiếm hữu thực sự, không gián đoạn và thường xuyên mà sự không liên tục tương đối lớn có thể được châm chước nếu có phù hợp với việc duy trì quyền có thông báo việc chiếm cứ đó cho các cường quốc khác thông qua con đường ngoại giao. Một danh nghĩa đã từng được thiết lập có thể mất đi nếu quốc gia sở hữu danh nghĩa này nhường lại cho quốc gia khác hoặc bằng con đường chuyển nhượng hoặc bằng con đường thụ đắc theo thời hiệu.
Trước hết Trung Quốc (TQ) yêu sách chủ quyền trên các quần đảo trên cơ sở quyền phát hiện và sự quản lý. Lập luận của TQ bao gồm: 1. Người TQ đã phát hiện ra các đảo này sớm nhất và đã đặt tên cho chúng. 2. Ngư dân TQ đã khai thác các đảo này từ hàng nghìn năm nay. Điều đó chứng minh chủ quyền của TQ. 3. Sự quy thuộc các đảo này vào TQ được củng cố bằng các phát hiện khảo cổ học. 4. TQ đã thực hiện các hành động cai quản trên các đảo này từ lâu đời. Chúng ta sẽ xem xét lập luận của TQ trong hai tiểu giai đoạn sau: thiết lập một danh nghĩa ban đầu và việc củng cố danh nghĩa đó.
Vấn đề đặt ra là các hoạt động mang tính nhà nước này đã diễn ra chính xác tại đâu? Đối với người VN đây là các hành động nhằm khẳng định danh nghĩa chiếm hữu trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngược lại phía TQ lại cho rằng: quần đảo Hoàng Sa mà VN nói hoàn toàn không phải là quần đảo Tây Sa của TQ mà chỉ có thể là những đảo và cồn cát ở ven biển miền Trung VN” ([1]) với hai lập luận.
Tháng 8.1907, người Nhật có tham vọng chiếm đóng các đảo không người của quần đảo Đông Sa, gần Quảng Đông. Việc này đe dọa trực tiếp tới an ninh của TQ. Biến cố này đã có hậu quả lật ngược hoàn toàn thái độ của TQ đối với Hoàng Sa, quần đảo được coi là bàn đạp có thể được sử dụng để chống lại TQ.
Thời nhà Nguyễn có rất nhiều tài liệu chính sử, nhiều sách ghi chép của các học giả nổi tiếng đương thời minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu cho thấy hoạt động thực thi chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã phát triển với một trình độ cao hơn so với các triều đại trước đó và mọi chi tiết đều được minh định, lưu trữ bằng những văn bản, mộc bản chính thức của Nhà nước trong văn khố quốc gia.