Tin Biển Đông

 
 
 

Nước Pháp với Biển Đông: Hoàng Sa

  • Cập nhật : 12/10/2016

Nước Pháp nhận thức tầm quan trọng Hoàng Sa, Trường Sa đối với phòng thủ Đông Dương, đã tiếp quản 2 quần đảo này với tư cách nhà nước bảo hộ.

Hiệp ước Patenôtre năm 1884 ký giữa Pháp với triều đình Huế ấn định dứt khoát chế độ bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Theo đó, quân đội Pháp có thể lui tới tất cả mọi nơi trên lãnh thổ Việt Nam và “tiếp quản” quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với tư cách là nhà nước bảo hộ.

Theo một văn bản của Phủ Toàn quyền Đông Dương, ngày 6/5/1921, lần đầu tiên có vấn đề các đảo Hoàng Sa trong hồ sơ của Phủ Toàn quyền là vào năm 1898, khi Bộ thuộc địa Pháp nhận được một thông báo của Lãnh sự Pháp ở Hải Khẩu (Trung Quốc) đã lưu ý Toàn quyền Đông Dương về lợi ích mà vị trí địa lý của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đem lại đối với Đông Dương.


Trạm quan trắc khí tượng do người Pháp xây dựng tại Hoàng Sa năm 1932

Sau khi đã căn bản ổn định việc xác lập chế độ bảo hộ trên toàn cõi Đông Dương, đồng thời khi Nhật Bản và Trung Quốc bắt đầu dòm ngó các đảo trên Biển Đông, chính quyền thuộc địa Pháp bắt đầu quan tâm củng cố sự quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Hoàng Sa đối với phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ Liên bang

Ngày 8/3/1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố  các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đất của nước Pháp. Quyết định này xuất phát từ những lý do an ninh và chiến lược phòng thủ Đông Dương, được Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol phân tích trong lá thư gửi Toàn quyền Đông Dương, với nhận định: “Trong tình hình hiện nay, không ai phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất lớn của các đảo Paracels (Hoàng Sa). Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng chúng sẽ là một mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang.

Một đối phương có thể thấy ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vũng và nhiều nơi tàu đậu tuyệt vời, và do tính chất của chúng thực tế là không thể đánh bật. Một đội tàu ngầm dựa vào căn cứ đó có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất ở Trung Kỳ, mà còn cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển. Lúc đó, để liên lạc  giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất dễ bị đánh vì chạy dọc bờ biển, pháo hải quân đặt trên các chiến  hạm có thể mặc sức phá hủy.


Người Pháp và người Việt Nam đồn trú tại Hoàng Sa đang đào giếng nước ngọt năm 1938

Đồng thời, mọi con đường thông  thương giữa Đông Dương - Viễn Đông - Thái Bình Dương sẽ bị cắt đứt; hải lộ Sài Gòn - Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels, do đó nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của căn cứ đặt trên các đảo”.

Chính phủ Pháp, cũng như chính quyền thuộc địa Đông Dương do “đánh giá đầy đủ tính nghiêm trọng” của vấn đề, đã tiến hành tái chiếm đóng và thực thi quyền kiểm soát đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Bộ trưởng Hải quân Pháp (quyền Bộ trưởng Bộ thuộc địa), trong thư trả lời Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, ngày 18/2/1929, liên quan đến Hoàng Sa, ghi nhận rằng, “đối với nhóm đảo không người ở này, An Nam có những quyền  lịch sử khó tranh cãi hơn nhiều so với các quyền mà Trung Hoa Dân quốc có thể đòi hỏi, và nước Pháp, là nước có nghĩa vụ giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ của vương quốc được bảo hộ, tốt nhất là làm thế nào để không bị bất ngờ trước “chuyện đã rồi” do Trung Quốc thực hiện”.

Tư liệu cổ Việt Nam “là luận cứ tốt nhất” về mặt ngoại giao

Trong khi Paris còn do dự, Toàn quyền Đông Dương viết cho Bộ trưởng Thuộc địa, nhấn mạnh “đã đến lúc chúng ta  phải tiến lên trước và khẳng định các quyền dường như đã được công nhận  bởi cả các tư liệu lịch sử lẫn các thực tế địa lý”.

Sự ngập ngừng của nước Pháp xuất phát từ những tính toán về quan hệ Pháp-Hoa và các quyền lợi của Pháp ở Trung Quốc. Nhưng bức thư của Toàn quyền Đông Dương gửi Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp ngày 18/10/1930 đã đặt dấu chấm hết cho sự lưỡng lự của chính phủ Paris. Bức thư có đề cập đến những bản sao nguyên các tư liệu rút ra từ kho lưu trữ của phủ Khâm sứ Trung Kỳ và của triều đình Huế gửi Paris, có đoạn viết: “Các tư liệu đó, mà tôi gửi kèm theo bốn bản phụ lục và bốn bản đồ là những tư  liệu duy nhất liên quan đến các đảo ở quần đảo Hoàng Sa, có thể tìm thấy ở Huế. Chắc hẳn ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng đã đủ để xác định không thể tranh cãi rằng An Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo, và làm như vậy trước năm 1909 nhiều. Năm 1909 là năm người Trung Quốc dường như đã thể hiện lần đầu tiên các yêu sách của họ về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Thực vậy, chính Hoàng đế Gia Long cũng chỉ tiếp tục lại một truyền thống có từ trước khi ngài lập lại Đội Hoàng Sa vào năm 1816, chịu trách nhiệm dưới các triều đại trước đây cuả An Nam, tiến hành mỗi năm một chuyến đi ra các đảo ở Hoàng Sa vào tháng 3 rồi trở về vào tháng 5 và nộp ở kinh thành những sản phẩm thu lượm được trên các đảo.

Chuyến đi do con vua Gia Long là vua Minh Mạng chỉ thị chứng tỏ là trong  triều đại nhà Nguyễn có sự liên tục về quan điểm mà Chính phủ Trung Quốc sẽ gặp trở ngại rất nhiều nếu họ muốn giành thế thắng.


Bia chủ quyền do Pháp xây dựng tại Hoàng Sa những năm 1930. Bia này là sự tiếp nối  bia chủ quyền được Vua Minh Mạng cho xây dựng tại Hoàng Sa đầu thế kỷ 19

Tôi cho rằng cần phải  đặc biệt nhấn mạnh giá trị của tập tư liệu này, tư liệu theo quan điểm của tôi sẽ là luận cứ tốt nhất của chúng ta, trong trường hợp có các tranh cãi ngoại giao với Trung Quốc”.

Ngày 24/4/1932, chính phủ Pháp đã có kháng nghị nêu rõ các danh nghĩa lịch sử và các bằng chứng về sự chiếm hữu của An Nam, sau đó là của Pháp đối với Hoàng Sa.

Cùng năm 1932, Pháp đề nghị đưa vụ tranh chấp Hoàng Sa ra các tòa án quốc tế, nhưng Trung Quốc đã từ chối chấp nhận đề nghị này. Đồng thời, theo Bản ghi chú ngày 25/5/1950 của Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp gửi vụ châu Á Bộ Ngoại giao Pháp, vào các năm 1937 và 1947, Chính phủ Trung Quốc cũng từ chối chấp nhận gợi ý của chính phủ Pháp đưa tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa ra giải quyết trước tài phán quốc tế. Như vậy dưới thời Pháp thuộc, Pháp 3 lần đề nghị và Trung Quốc đều từ chối đưa tranh chấp Hoàng Sa ra trọng tài quốc tế.

Ngày 26/11/1937, Pháp phái kỹ sư trưởng  công chính J. Gauthier ra Hoàng Sa để nghiên cứu tìm địa điểm xây dựng đèn biển, bãi đỗ cho thủy phi cơ và các điều kiện định cư ở quần đảo này.

Tháng 6/1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa.

Ngày 5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brévié ký quyết định tách đơn vị hành chính Hoàng Sa thành hai đơn vị hành chính “Croissant và các đảo phụ thuộc” và  Amphitrite và các đảo phụ thuộc”.

Đầu tháng 1/1947, một phái đoàn quân sự Pháp đến đảo Hoàng Sa.

Ngày 14/10/1950, chính phủ Pháp chính thức trao cho chính phủ Bảo Đại quyền kiểm soát các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.

Theo Tổ Quốc

Trở về

Xem thêm

    Bài cùng chuyên mục

    • Tại sao Mỹ im lặng khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam1

      Tại sao Mỹ im lặng khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam

      Qua cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" do UBND huyện Hoàng Sa (Đà Nẵng) và NXB Thông tin - Truyền thông xuất bản tháng 1/2012 và cuốn "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (NXB Sự thật, 1979), người ta càng hiểu rõ việc Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa là kết quả của một sự mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam!

    • Hải đội Hoàng Sa thực thi chủ quyền2

      Hải đội Hoàng Sa thực thi chủ quyền

      Hàng năm cứ vào khoảng cuối tháng 2 âm lịch, khi các đợt gió mùa Đông Bắc thưa dần trên Biển Đông, người dân đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) lại cùng nhau cử hành các nghi lễ được gọi là "Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa”. Đây chính là hoạt động tri ân và tưởng nhớ những người lính trong đội hùng binh Hoàng Sa kiêm quản Trường Sa năm xưa đã hy sinh thân mình để bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trên Biển Đông.

    • Người con xa xứ và 80 tấm bản đồ3

      Người con xa xứ và 80 tấm bản đồ

      Kể từ khi TS Mai Hồng (viện Nghiên cứu Hán – Nôm) công bố tấm bản đồ Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do nhà Thanh (Trung Hoa) ấn hành năm 1904, với chi tiết điểm cực nam của lãnh thổ Trung Quốc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam, thì một người Việt khác đang sống ở Hoa Kỳ cũng bước vào cuộc tìm kiếm những tấm bản đồ tương tự ở hải ngoại. Anh là Trần Thắng, chủ tịch viện Văn hoá giáo dục Việt Nam (IVCE) tại Hoa Kỳ. Cuộc tìm kiếm của anh đã thu được những thành quả ban đầu.

    • “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ”: Thêm một bằng chứng về bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa4

      “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ”: Thêm một bằng chứng về bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

      Người có công sưu tầm, công bố cuốn tài liệu quý trên là ông Bùi Viết Đông, 84 tuổi, ở phố Cấm, phường Gia Viên, quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng. Trong cuốn sách có đăng tấm bản đồ mang tên “Trung Hoa dân quốc tối tân địa đồ” với điểm cực Nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam (không có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).

    • Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam5

      Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam

      Một thực tế không thể chối cãi, Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam. Điều này vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia.

    • Tủ sách biển Đông: Hoàng Sa – Trường Sa, luận cứ & sự kiện6

      Tủ sách biển Đông: Hoàng Sa – Trường Sa, luận cứ & sự kiện

      “Hoàng Sa – Trường Sa: Luận cứ và sự kiện” tập hợp những bài nghiên cứu của nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc.

    • Chủ quyền biển đảo của Việt Nam từ các bản đồ trong lịch sử7

      Chủ quyền biển đảo của Việt Nam từ các bản đồ trong lịch sử

      "Trung Quốc muốn các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế tin rằng yêu sách của họ về "đường lưỡi bò” là đúng thì họ phải chứng minh được bằng chứng cứ khoa học cụ thể; hoặc là do Trung Quốc đã tự mâu thuẫn khi tuyên bố những điều hoàn toàn vô lý nên cố tình lờ đi sự thật ấy” - nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã nhấn mạnh như vậy khi cung cấp một số lượng lớn bản đồ tự tay sưu tập cho báo Đại Đoàn Kết.

    • Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Hoa8

      Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Hoa

      Theo chính sử Trung Hoa, trong suốt 22 thế kỷ, từ các đời Tần, Hán đến sau Thế chiến thứ II, không thấy tài liệu nào, hay nói rõ hơn, không có câu chữ nào ghi rằng Biển Đông (Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Hoa) với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trong khi đó, không ít thư tịch cổ Trung Hoa, do chính người Trung Hoa ghi lại trong lịch sử đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.