Tin Biển Đông

 
 
 

Biển Đông, giải quyết từ chuyện cái tên

  • Cập nhật : 12/10/2016

Trong hai hướng tiếp cận, giữ lại tên gọi “Nam Trung Hoa” tạo ra những hiểu lầm địa dư, lẫn pháp lý. Các tên biển đã xuất hiện từ thời xa xưa (như “biển Nhật Bản” hay “biển Nam Trung Hoa”...) có thể tạo lợi thế cho các nước có tên liên quan, nếu các quốc gia này dựa vào đó tự hợp pháp hoá các lợi ích của mình và xem đó như “các chứng cứ lịch sử”, bất chấp sự thật rằng những cái tên ấy chỉ nhằm mục đích tạo ra một sự thuận tiện trong giao thông hàng hải.

 

Mốc chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc trên đảo Trường Sa Lớn. Ảnh: Dân Trí

Khoảng một năm trở lại đây, cuộc tranh luận về tên gọi quốc tế của Biển Đông Việt Nam trở nên nóng hơn với ba đề nghị khác nhau. Trung Quốc vẫn muốn giữ nguyên tên hiện nay là “biển Nam Trung Hoa”, Philippines lại muốn gọi là “biển Tây Philippines” (West Philippines Sea), còn Việt Nam thì quan điểm của một số học giả – sử gia đề nghị đổi tên thành “biển Đông Nam Á” (“Southeast Asia Sea”). Ngày 12.9 vừa qua, Tổng thống Philippines Benigno Aquino cho biết đã thông qua Lệnh hành chính 29 (AO) chính thức gọi đây là “biển Tây Philippines” trên bản đồ hành chính của nước này. Còn phía Trung Quốc, từ lâu chính phủ nước này vẫn ưu tiên tên gọi “biển Nam Trung Hoa” (South China Sea) – được sử dụng phổ biến trong các văn bản chính thức xuất phát từ những thuỷ thủ người Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16, trong quá trình tìm kiếm cơ hội giao thương với Trung Hoa và sau đó được tổ chức Thuỷ văn quốc tế (International Hydrographic Organization – IHO) sử dụng.

Trong hai hướng tiếp cận, giữ lại tên gọi “Nam Trung Hoa” tạo ra những hiểu lầm địa dư, lẫn pháp lý. Các tên biển đã xuất hiện từ thời xa xưa (như “biển Nhật Bản” hay “biển Nam Trung Hoa”...) có thể tạo lợi thế cho các nước có tên liên quan, nếu các quốc gia này dựa vào đó tự hợp pháp hoá các lợi ích của mình và xem đó như “các chứng cứ lịch sử”, bất chấp sự thật rằng những cái tên ấy chỉ nhằm mục đích tạo ra một sự thuận tiện trong giao thông hàng hải. Bởi thực tế, nếu chỉ dựa vào tên biển để khẳng định chủ quyền sẽ không ổn, vì Ấn Độ Dương (India Ocean) có thể sẽ là của Ấn Độ và Mexico có thể tuyên bố vịnh Mexico (Gulf of Mexico) thuộc về mình!

Trên góc nhìn thông lệ quốc tế, không tồn tại một nguyên tắc thống nhất. Việc đặt tên thường dựa vào ý chí chủ quan của một người hay một nhóm người, khi họ sử dụng những đặc điểm hay tính chất của vùng biển đó. Tên gọi của một vùng biển hay đại dương nào đó thông thường căn cứ vào vị trí của chúng so với vùng đất gần đó cho dễ nhận biết và không có ý xác định chủ quyền. Một vài ví dụ như Ấn Độ Dương ở phía nam Ấn Độ, biển Nhật Bản được bao quanh bởi nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên hay Nga. Nếu xét về địa dư, Đông Nam Á bao bọc hầu như toàn bộ chu vi của Biển Đông với tổng chiều dài bờ biển vào khoảng 130.000km trong khi đường bờ biển của các tỉnh duyên hải phía nam Trung Quốc chỉ vào khoảng 2.800km.

Việc đổi tên của Philippines sẽ chẳng thay đổi gì hiện trạng hiện nay mà chỉ tạo thêm những tranh cãi. Việc đổi tên này, theo phía Philippines, nhằm khẳng định lại vùng lãnh hải mà Nhà nước Cộng hòa Philippines nắm chủ quyền và có quyền tài phán. Nhưng cũng chỉ là khẳng định đơn phương, khó được chấp nhận từ bên ngoài.“Biển Tây Philippines” không phải là tên trung lập, trong khi điều các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á cần là một tên biển mang tính không phụ thuộc vào địa lý của một quốc gia. Biện pháp đổi tên theo đề nghị từ phía các học giả Việt Nam có thể đáp ứng được những tiêu chí này. Biển Đông Nam Á là một cái tên trung lập hơn, cũng như tên biển Carribean hay biển Arập. Việc đặt tên biển thành tên khu vực đất liền bao xung quanh bờ biển không chỉ thể hiện vị trí địa lý của biển, quyền lợi của các quốc gia trong khu vực mà còn “nói lên tính quốc tế của vấn đề tranh chấp, đụng chạm đến trung tâm lợi ích về an ninh và kinh tế của các nước trong khu vực”, tạo ra cơ hội xây dựng các cuộc đối thoại đa phương nếu có những tranh chấp về chủ quyền.

Kiến nghị thay đổi tên gọi thành biển Đông Nam Á cần đặt trong bối cảnh như vậy. Đây không chỉ là vấn đề cái tên, mà là một khẳng định về danh từ chung đang và sẽ được dùng trong việc xác định một khu vực đang tranh chấp. Xuất phát từ sự khác biệt về quan niệm có thể dẫn đến sự chấp nhận cùng một lúc nhiều mô thức khác nhau về cảm nhận, cách diễn dịch, thậm chí hành vi ứng xử của các nước tham gia và những nước quan sát bên ngoài. Trong thế cờ Biển Đông hiện nay, Việt Nam đang rất cần nhiều tiếng nói ủng hộ, cũng như phản đối từ cộng đồng quốc tế trước những hành vi nước bạn đi ngược lại các giá trị chung. Một trong số đó là việc áp đặt quan điểm của nước lớn, nước mạnh mà không thông qua lập luận hay lý lẽ.

Thông qua con đường ngoại giao, mà cụ thể là thuyết phục các nước ASEAN đi đến đồng thuận về một tên gọi thống nhất. Biển Đông Nam Á là tên gọi khả dĩ nhất, vì khẳng định tính trung lập (so với “Nam Trung Hoa” của Trung Quốc hay “biển Tây Philippines” như đề nghị của Philippines) và tiệm cận gần hơn với cấu trúc địa lý của vùng.

Trên căn bản, cuộc vận động đổi tên có thể được khởi động bằng hai kênh chính. Một là thông qua con đường ngoại giao, mà cụ thể là thuyết phục các nước ASEAN đi đến đồng thuận về một tên gọi thống nhất. Biển Đông Nam Á là tên gọi khả dĩ nhất, vì khẳng định tính trung lập (so với “Nam Trung Hoa” của Trung Quốc hay “biển Tây Philippines” như đề nghị của Philippines) và tiệm cận gần hơn với cấu trúc địa lý của vùng. Quá trình tác động nên được tiến hành thận trọng, theo từng bước đi cụ thể, phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như thiện chí của tất cả các bên. Trong mọi tính toán chiến thuật, cũng như chiến lược, cần đi tìm phương thức tồn tại, hơn là loại trừ. Sự thay đổi tên gọi sang biển Đông Nam Á, thay vì biển Tây Philippines, có thể xem như một giải pháp chính trị thực dụng, dung hoà ý kiến giữa Manila và chính phủ các nước ASEAN còn lại.

Kênh thứ hai là đẩy mạnh con đường “học thuật hoá”. Thắng lợi gần đây của Việt Nam trong việc cho thế giới thấy về sự xuất hiện phi lý của “đường lưỡi bò” qua các bài viết khoa học của tác giả Trung Quốc, có công đầu thuộc về giới học giả, trí thức. Hai tạp chí danh tiếng Nature và Science đã cùng đưa ra quan điểm phản đối hành động phản khoa học từ phía Trung Quốc. Trong các tác phẩm xuất bản trên các tạp chí (đặc biệt là tạp chí nước ngoài), các nhà khoa học nước nhà nên bắt đầu sử dụng biển Đông Nam Á như một tên gọi thống nhất từ phía Việt Nam, trước khi tiếp tục vận động các học giả khác từ các nước khu vực Đông Nam Á đồng tình với việc sử dụng tên gọi này. Có thể ban đầu một số trở ngại sẽ xuất hiện, do thông lệ vẫn dùng tên gọi biển Nam Trung Hoa, nhưng đó sẽ không là việc khó nếu đồng ý rằng khoa học là quá trình trao đổi và nhận thức (cũng như là nhận thức lại). Thêm vài dòng chú giải, thêm một ít biện dẫn hay thêm một số thông tin cập nhật tình hình chắc chắn sẽ không làm bài viết mất đi giá trị hàn lâm ban đầu. Quan trọng hơn, nó sẽ (ít nhất) đánh động cho cộng đồng khoa học thế giới về sự tồn tại song song của nhiều cái tên (cũng như những câu chuyện đằng sau đó) cùng nói về một vùng biển đang tranh chấp.

Thêm một cánh én về, mùa xuân càng sớm đến...
 

Nguyễn Chính Tâm – Vũ Thành Công
Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị


 

Trở về

Xem thêm

    Bài cùng chuyên mục

    • Sách “Địa dư đồ khảo” của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa1

      Sách “Địa dư đồ khảo” của Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

      Sáng ngày 28/8 tại TPHCM, Ban Văn Hóa Trung ương GHPGVN đã tổ chức công bố tập sách “Địa dư đồ khảo” - đây là một tài liệu cổ liên quan đến vấn để lãnh hải hai nước Việt Nam và Trung Quốc do nhà nguyên cứu Trần Đình Sơn lưu giữ.

    • Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong thư tịch triều Nguyễn2

      Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong thư tịch triều Nguyễn

      Thời nhà Nguyễn có rất nhiều tài liệu chính sử, nhiều sách ghi chép của các học giả nổi tiếng đương thời minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu cho thấy hoạt động thực thi chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã phát triển với một trình độ cao hơn so với các triều đại trước đó và mọi chi tiết đều được minh định, lưu trữ bằng những văn bản, mộc bản chính thức của Nhà nước trong văn khố quốc gia.

    • Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thời Pháp thuộc3

      Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thời Pháp thuộc

      Từ khi triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Thân (1884) với Chính phủ Pháp nước ta bước vào thời kỳ mà các sử gia gọi là Thời kỳ Pháp thuộc. Trong thời kỳ này, chính quyền thuộc địa Pháp thay mặt Nam Triều trong những quan hệ ngoại giao, đồng thời đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ của những cam kết chung, Pháp tiếp tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên thực tế, chính quyền thuộc địa Pháp đã có nhiều hành động cụ thể liên tục củng cố, khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này.

    • Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông4

      Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông

      Sách “Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông”, Chủ biên Ts Trần Công Trục, khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự, liên tục, hòa bình, ít nhất là từ thế kỉ XVII.

    • Những căn cứ mơ hồ của Trung Quốc về Biển Đông5

      Những căn cứ mơ hồ của Trung Quốc về Biển Đông

      Trung Quốc đã xúc tiến kế hoạch xâm lấn Biển Đông như thế nào và dùng lý lẽ nào để "biện minh" cho những chiêu bài đã "lộ tẩy" trên Biển Đông?

    • Châu bản triều Nguyễn ngày 19 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)6

      Châu bản triều Nguyễn ngày 19 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838)

      Quan Bố chính sứ tỉnh Quảng Ngãi là Đặng Đức Thiệm tấu trình xin miễn trừ các hạng thuế thuê thuyền đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa. Văn bản ghi rõ họ tên các chủ thuyền cùng số tiền xin được miễn trừ. [Tờ tấu] gửi ngày 19 tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) đến ngày 4 tháng 8, các quan Hà Duy Phiên, Vũ Đức Khuê, Phan Thanh Giản, Đoàn Khiêm vâng mệnh truyền chỉ.

    • Quần đảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Thừa Thiên Huế (1938)7

      Quần đảo Hoàng Sa thuộc Tỉnh Thừa Thiên Huế (1938)

      Dụ của vua Bảo Đại số 10 ngày 29/2 năm Bảo Đại thứ 13 (30/3/1938), tách quần đảo Hoàng Sa khỏi địa hạt tỉnh Nam Ngãi, đặt vào tỉnh Thừa Thiên.

    • Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII8

      Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII

      Từ rất lâu người Việt Nam đã phát hiện ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII đã rất có ý thức xác lập chủ quyền và thực tế đã tổ chức nhiều hoạt động khai thác tài nguyên, thực thi chủ quyền trên các quần đảo này một cách hiệu quả, lâu dài.