Tin Biển Đông

 
 
 

Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông

  • Cập nhật : 12/10/2016

"Sử Việt Nam và sử Trung Quốc đều ghi nhận về Hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải của Đại Việt"

Suốt trong ba thế kỷ từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, một tổ chức của Nhà nước, đội Hoàng sa và đội Bắc Hải, là bằng chứng hùng hồn về sự xác lập chủ quyền của Đại Việt ở Đàng Trong đối với Hoàng Sa.

Đội Hoàng Sa ra đời ở cửa biển Sa Kỳ và Cù Lao Ré thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

Sử sách Việt Nam và cả ở Trung Quốc đều chép đội Hoàng Sa được thành lập vào đầu thời chúa Nguyễn. Hải ngoại Kỷ sự (Trung Quốc) viết năm 1696, chép thời Quốc Vương trước đã có những hoạt động của đội Hoàng Sa và Phủ biên tạp lục viết năm 1776, chép ‘Tiền Nguyễn Thị’. Đại Nam thực lục tiền biên (1821) chép ‘Quốc sơ trí Hoàng Sa’. Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (năm 1686), đã đề cập đến các hoạt động của đội Hoàng Sa. Phủ biên tạp lục cũng như các tài liệu khác đều cho biết đội Hoàng Sa khi trở về đất liền vào thàng tám âm lịch vào Cửa Eo hay Tư Hiền rồi nộp sản vật tại chính dinh ở Phú Xuân. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan mới bắt đầu dời chính dinh đến Kim Long vào năm Dương Hòa đầu năm (1635) và thời chúa Nguyễn Phúc Tần mới dời qua Phú Xuân.

Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông (Bài 2)

Bìa sách Hải ngoại kỷ sự, Bản in trong tứ khố toàn thư, ghi nhận Hải đội Hoàng Sa, Hải đội Bắc Hải của Việt Nam

Như thế, chúng ta có cơ sở để kết luận đội Hoàng Sa ra đời sớm nhất từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) hay chắc chắn từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687), bởi chính vào thời kỳ này, các thuyền của đội Hoàng Sa mới đi vào cửa Eo (Thuận An) và nộp sản vật tại chính dinh Phú Xuân.

Dù ở thời chúa Nguyễn nào thì thời điểm lập ra đội Hoàng Sa cũng chắc chắn ít ra là vào nửa đầu thế kỷ XVII, hoặc nói như sử sách, là vào đầu thời chúa Nguyễn. Đội Hoàng Sa đã hoạt động kể từ thời chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần đến hết thời kỳ chúa Nguyễn, cả thảy 7 đời chúa, gần một thế kỷ rưỡi. Phong trào Tây Sơn nổi dậy, chúa Nguyễn chạy vào đất Gia Định thì đội Hoàng Sa đặt dưới tầm kiểm soát của Tây Sơn mà trong tài liệu còn lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh, Cù Lao Ré, đã cho biết năm 1786 Thái Đức năm thứ 9, dân Cù Lao Ré đã xin chính quyền Tây Sơn cho đội Hoàng Sa hoạt động trở lại. Đến những năm cuối cùng của Tây Sơn, hoạt động của đội Hoàng Sa cũng bị ảnh hưởng, nên đến khi Gia Long năm thứ hai (1803) mới cho đội Hoàng Sa hoạt động trở lại, Đại Nam thực lục chính biên, quyển XXII đã ghi rõ : ‘Cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa’. Năm 1815, vua Gia Long sai đội Hoàng Sa đi đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa.

Hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải được ghi đậm dấu ấn trong nhiều sử sách thời Nguyễn

Từ năm 1816, Gia Long bắt đầu cử thuỷ quân cùng với đội Hoàng Sa, không còn giao phó hoàn toàn cho đội Hoàng Sa, lo kiểm soát, đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa trở thành tổ chức mang tính dân sự nhiều hơn. Theo truyền thống, dân Cù Lao Ré vẫn tiếp tục đi biển trong đó có vùng Hoàng Sa có nhiều sản vật quý.

Vào thời Minh Mạng, như năm 1835, vẫn thấy đội Hoàng Sa hỗ trợ thủy quân đi công tác tại Hoàng Sa với đà công (lái thuyền) và dân phu. Thời Tự Đức, người ta không thấy các biên niên sử còn chép lại các hoạt động của đội Hoàng Sa, vì theo Đại Nam thực lục, đệ tứ kỷ, chép vào đời Tự Đức, những việc thành lệ thông thường không được chép nữa mà thôi. Những hoạt động của đội Hoàng Sa cũng như thủy quân từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836) đã trở thành lệ thường, như đã chép trong sách Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ.

Ngoài ra có văn tế sống lính đội Hoàng Sa thời vua Tự Đức còn lưu lại Ở Đảo Cù Lao Ré.

Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông (Bài 2)

Văn tế dân binh Hải đội Hoàng Sa được tìm thấy ở Đảo Lý Sơn

Về lịch hoạt động ở ngoài đảo, theo những tài liệu như Dư địa chí, Hoàng Việt địa chí dư, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí, hàng năm đội Hoàng Sa bắt đầu đi từ tháng ba âm lịch đến tháng tám âm lịch thì về. Riêng theo Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư hay Toản tập An Nam lộ thì lúc đi cuối Đông, không nói thời gian về; theo Phủ biên tạp lục có bản đồ thường đi vào tháng giêng âm lịch đến tháng tám thì về (Nếu lương thực mang đi có 6 tháng, từ tháng ba đến tháng tám, tức từ khoảng tháng 4 đến tháng 9 dương lịch ở Quảng Ngãi là mùa khô có gió Tây Nam rất thuận lợi cho việc đi biển, nhất là vùng Quảng Ngãi lại chỉ có bão trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch (Tháng 9 dương lịch đến tháng 12 dương lịch), nhất là hai tháng 9 và 10 âm lịch. Như thế, việc chọn thời gian hoạt động trên của đội Hoàng Sa là một lựa chọn rất khôn ngoan của tiền nhân.

Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông (Bài 2)

Lế khao lề thế Hải đội Hoàng Sa tại đảo Lý Sơn

Đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải có nhiệm vụ thu lượm các sản vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ vùng biển quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.

Ngoài ra, về sau còn đảm trách đi xem xét, đo đạc thủy trình vùng Hoàng Sa.

Riêng về nhiệm vụ do thám và bảo vệ vùng biển Hoàng Sa nhằm chống lại nạn cướp thì đơn xin phường An Vĩnh tách khỏi xã An Vĩnh ngày 01 tháng 02 năm Gia Long thứ 3 (1804) đã ghi rõ nhiệm vụ này. Ngoài ra, chức cai đội Hoàng Sa kiêm chức cai cơ Thủ ngự mà Thủ ngự lại có nhiệm vụ do thám ngoài biển. Nhiều tài liệu cho biết cai đội Hoàng Sa kiêm quản cai cơ Thủ ngự như Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhất kỷ, quyển XXII ghi rõ : Võ Văn Phú được sai tái lập đội Hoàng Sa, chính khi ấy là thủ ngự cho cửa biển Sa Kỳ.

Như thế, nhiệm vụ của đội Hoàng Sa rất nặng nề, không thuần túy về kinh tế, khai thác tài nguyên mà còn làm công tác xem xét, đo đạc thủy trình, do thám trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, nhất là trong các thời kỳ chúa Nguyễn và đầu nhà Nguyễn.

Đội Hoàng Sa là một tổ chức nhà nước, vừa mang tính chất dân sự vừa mang tính chất quân sự; vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng quản lý ở Biển Đông, ra đời từ đầu thời chúa Nguyễn.

Đứng đầu đội Hoàng Sa là một "cai đội", những thành viên trong đội được gọi là "lính". Đó là những quân nhân đi làm nhiệm vụ do vua ban.

Thời chúa Nguyễn mỗi năm lấy 70 suất đinh để thực hiện những nhiệm vụ của đội Hoàng Sa. Số lượng 70 suất là số lượng đặc biệt cho một đội dân binh như đội Hoàng Sa. Cũng theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã gọi những người trong đội Hoàng Sa là "dân binh", và mỗi thuyền của đội Hoàng Sa có số lượng là 10 dân binh: Năm Càn Long thứ 17 (1754) một thuyền của đội Hoàng Sa gặp bão làm cho 10 dân binh trên con thuyền đó bị nạn, hai người trôi dạt vào cảng Thanh Lan (Hải Nam), còn 8 người khác bị mất tích.

Tại xã An Vĩnh, nay thuộc thôn An Vĩnh, xã Tự Kỳ còn di tích một ngôi miếu ở cạnh cửa biển Sa Kỳ, là ngôi miếu Hoàng Sa vốn thờ bộ xương đầu cá voi (tương truyền do binh đội Hoàng Sa đưa từ Hoàng Sa về) và thờ lính Hoàng Sa, ngôi miếu này bị phá hủy trong thời kỳ chiến tranh và bộ xương cá voi thần linh ở miếu này được chuyển sang thờ tại lăng Thánh, ngay cạnh ngôi miếu xưa.

Tại Cù Lao Ré nay là huyện đảo Lý Sơn vẫn còn Âm Linh tự, tức miếu Hoàng Sa, ở thôn Tây, xã An (hay Lý) Vĩnh, tức phường An Vĩnh xưa và Âm Linh tự ngoài trời ở xã Lý Hải tức phường An Hải xưa. Cũng tại xã An Vĩnh và cả làng xã An Hải (cả đất liền lẫn ngoài đảo Cù Lao Ré) có tục tế đình và làm lễ khao quân tế sống để tiễn lính đội Hoàng Sa lên đường làm nhiệm vụ. Hàng năm vào ngày 20 tháng 2 âm lịch, đến ngày nay vẫn còn các nhà thờ các tộc họ, các đình làng. Trong buổi tế sống lính Hoàng Sa đó, họ làm những hình nộm bằng khung tre và giấy ngũ sắc để giả hình người và đem tế tại đình. Tế xong họ đốt đi hoặc đóng thuyền bằng thân cây chuối đặt hình nộm lên và thả trôi ra biển gọi là ‘Khao lề thế lính Hoàng Sa’ còn gọi là ‘Lễ tế sống lính Hoàng Sa’ với quan niệm các hình nộm kia sẽ gánh chịu mọi hiểm nguy, tai nạn trên biển thay cho đội Hoàng Sa và cầu mong cho người thân của họ bình an trở về. Ngày nay tại các nhà thờ tộc họ có người đi lính Hoàng Sa đều có tổ chức tục lệ như thế và hiện tại gia đình các tộc họ cũng còn giữ bài văn khao thế lính Hoàng Sa vừa bằng chữ Hán vừa bằng chữ Nôm.

Với những nhiệm vụ và tổ chức hoạt động kể trên, đội Hoàng Sa thu lượm những hải vật quý lạ ở Hoàng Sa như hải sâm, ốc hoa, ốc tai voi, có chiếc lớn như chiếc chiếu, bụng có châu ngọc lớn như ngón tay trẻ em, sắc đục không bằng sắc con trai châu, song vỏ ốc có thể tách ra từng phiến, cũng có thể dùng vỏ ốc làm thành vôi; có thứ ốc xà cừ, người ta có thể dùng dát các đồ dùng; có thứ đại mạo hay đại mội, tức con đồi mồi rất lớn hay con hải ba (ba ba biển tục gọi là con trắng bông, cũng giống như con đồi mồi, nhưng nhỏ hơn).

Quan trọng nhất là các hàng hóa từ các tàu đắm mà Toản tập thiên Nam tứ chí lộ đồ thư viết rằng hàng hóa thu được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng ống. Phủ biên tạp lục thì ghi: những đồ hải vật như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vàng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, khẩu súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ.

Lê Quý Đôn hồi làm Hiệp Trấn Thuận Hóa trong Phủ biên tạp lục, có viết: Tra khảo sổ biên của cai đội Thuyền Đức Hầu (người chỉ huy đội Hoàng Sa) trong nhiều năm đã vào Phú Xuân nộp các sản vật thu lượm được từ Hoàng Sa, cụ thể như sau :

- Năm Nhâm Ngọ (1702), đội Hoàng Sa lượm được bạc 30 thoi.

- Năm Giáp Thân (1704), lượm được thiếc 5100 cân.

- Năm Ất Dậu lượm được bạc 126 thoi.

Còn từ năm Kỷ Sửu (1709) đến năm Qúy Tỵ (1713) tức là trong khoảng 5 năm, thỉnh thoảng họ cũng lượm được mấy con đồi mồi và hải sâm. Cũng có lần họ chỉ lượm được mấy khối thiếc, mấy cái bát đá và 2 khẩu súng đồng.

Đội Hoàng Sa còn được giao nhiệm vụ kiêm quản đội Bắc Hải, một tổ chức được lập ra để thực thi nhiệm vụ trên khu vực quần đảo Trường Sa. Đội Bắc Hải được thành lập sau đội Hoàng Sa vào khoảng trước năm 1776. Địa bàn hoạt động của đội Bắc Hải chủ yếu là ở khu vực quần đảo Trường Sa, khu vực biển Côn Sơn, Hà Tiên,...

Những “dấu ấn” đầu tiên của Việt Nam trên Biển Đông (Bài 2)

Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn còn vẽ các đảo trong quần đảo Hoàng Sa

Phủ biên tạp lục, quyển 2 của Lê Quý Đôn đã ghi chép về đội Bắc Hải như sau :

‘Họ Nguyễn còn thiết lập đội Bắc Hải. Đội này không định trước bao nhiêu suất. Hoặc chọn người thôn Tứ Chính thuộc phủ Bình Thuận, hoặc chọn người làng Cảnh Dương, lấy những người tình nguyện bổ sung vào đội Bắc Hải. Ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi và chỉ thị sai phái đội ấy đi làm nhiệm vụ’.

‘Những người được bổ sung vào độ Bắc Hải đều được miễn nạp tiền sưu cùng các thứ tiền lặt vặt, như tiền đi qua đồn tuần, qua đò’.

‘Những người trong đội đi thuyền câu nhỏ ra xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo thuộc vùng Hà Tiên để tìm kiếm, lượm nhặt những hạng đồi mồi, hải ba, đồn ngư (cá heo lớn), lục quý ngư, hải sâm’.

Các sử sách được viết vào thế kỷ XIX như Đại Nam thực lục tiền biên, soạn xong năm 1884, Đại Nam nhất thống chí, soạn xong năm 1882, cũng đã ghi nhận hoạt động của đội Bắc Hải.
 

Hồng Chuyên // Theo InfoNet

(Lược trích từ sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông)

Trở về

Xem thêm

    Bài cùng chuyên mục